1- Trước tiên cần lưu ý là hộ gia đình ở Trung Quốc có tỷ lệ để dành rất lớn, lên đến 50% thu nhập, vì người dân phải tự lo cho tương lai khi về già, do chính sách chỉ có một con và do không có chính sách hưu trí cho những người không phải là nhân viên nhà nước. Tiền để dành này chủ yếu gửi ngân hàng với lãi suất rất thấp, nhiều khi thấp hơn lạm phát.
2- Doanh nghiệp Trung Quốc đang gánh núi nợ rất lớn. Tỷ lệ nợ (gồm tín dụng ngân hàng và trái phiếu) trên GDP lên đến 280%, mà chủ yếu là nợ của doanh nghiệp.
Nguyên nhân nợ cao là do chính phủ đẩy mạnh cấp tín dụng cho doanh nghiệp và địa phương nhằm nâng cao tốc độ tăng GDP khi thế giới khủng hoảng từ những năm 2008. Báo The New York Times và The Wall Street Journal cho rằng tỷ lệ nợ của Trung Quốc đã lên đến 280-300% GDP, tức là trên 30.000 tỉ đô la Mỹ (GDP của Trung Quốc là 10.000 tỉ đô la).
Con số chắc chắn ở thời điểm năm 2013 (tín dụng + trái phiếu) - đã kiểm chứng dựa vào thông tin của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - là 220%. Do nợ cao như thế, số tiền chi trả lãi cũng cao.
3- Năng suất lao động của Trung Quốc đã giảm và tiếp tục giảm. Trước đây đầu tư 3 đồng thì tạo ra 1 đồng. Bây giờ cần 4,9 đồng mới tạo ra 1 đồng như vậy.
Lương ở Trung Quốc đã tăng cao so với các nước khác, mỗi năm tăng hơn 10% trong 10 năm qua. Riêng ngành dệt, giá thành sản phẩm của Trung Quốc đã tương đương với ở Mỹ. Vì vậy, Trung Quốc đang chuyển đầu tư sang Mỹ.
Lương công nhân sẽ tiếp tục tăng vì dân số ở độ tuổi lao động của Trung Quốc đã không tăng và sẽ giảm mạnh những năm tới. Do các yếu tố trên, Trung Quốc sẽ không thể dùng xuất khẩu để tăng trưởng nữa.