Nga rõ ràng là nước chịu tác động mạnh nhất, khi mà 50% ngân sách phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ, khí đốt. Mọi việc hiện đã vượt khỏi tầm kiểm soát của Moskva, do cú sốc lần này xuất phát từ các nhân tố bên ngoài.
Xét trên góc độ tổ chức thị trường, đã có sự thay đổi về người chơi chính. Năm 2014, khi xuất hiện những quan ngại về dầu mất giá, đại diện các nước OPEC đã nhóm họp tại Vienna (Áo). Tuy nhiên, tổ chức này đã đi tới quyết định không áp đặt quota về sản lượng khai thác để quyết giữ thị phần, đánh bại những “tay chơi mới”. Điều này đã có hiệu ứng ngược. Nguồn cung dầu từ phi truyền thống có tiềm năng lớn hơn những gì người ta tưởng. Trung Quốc hiện đã có bước chuyển hướng sang khai thác dầu đá phiến. Kế đến, sản lượng khai thác ở mức cao kỉ lục của Mỹ đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
IEA nhận định Nga sẽ là “nạn nhân lớn nhất của giá dầu giảm”. Lý do nằm ở tác động hội tụ đa chiều: Giá thấp đúng thời điểm Nga phải chịu tác động từ các lệnh cấm vận và đồng ruble mất giá. Trong bối cảnh này, Moskva không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc xem xét lại các đề án phát triển đối với các mỏ ngoài khơi, phi truyền thống. Nó được thể hiện qua việc Nga cố gắng giữ thị phần dầu mỏ với việc ký kết các hợp đồng dài hạn, chuyển hướng thị trường, trong đó có kế hoạch hướng Đông.
Để đạt được mục tiêu này, Nga phải đẩy nhanh việc khai thác ở Bắc Cực và Đông Siberia, hoặc là thay đổi cấu trúc ngành dầu mỏ. Cả hai lựa chọn này đều đụng phải thách thức đến từ đòn bao vây, cấm vận của phương Tây: 1/ Hoạt động của ngành năng lượng khựng lại do bị hạn chế tiếp cận với công nghệ, tài chính và tác động này không chừa bất kể một tập đoàn nào, từ Gazprom, Lukoil tới Rosneft; 2/ Các dự án khai thác ở vùng nước sâu như Siberia, Bắc Cực cũng khốn đốn, với việc các đối tác như Total, ExxonMobil đều đã rút khỏi liên doanh với Nga. Vòng xoáy còn chưa dừng lại ở đó. Việc đồng ruble liên tục rớt giá từ cuối năm 2014 đến nay buộc Ngân hàng Trung ương Nga phải can thiệp bằng bước áp mức lãi suất cao, đẩy gánh nặng về vốn, nợ, làm tăng
Xét trên góc độ tổ chức thị trường, đã có sự thay đổi về người chơi chính. Năm 2014, khi xuất hiện những quan ngại về dầu mất giá, đại diện các nước OPEC đã nhóm họp tại Vienna (Áo). Tuy nhiên, tổ chức này đã đi tới quyết định không áp đặt quota về sản lượng khai thác để quyết giữ thị phần, đánh bại những “tay chơi mới”. Điều này đã có hiệu ứng ngược. Nguồn cung dầu từ phi truyền thống có tiềm năng lớn hơn những gì người ta tưởng. Trung Quốc hiện đã có bước chuyển hướng sang khai thác dầu đá phiến. Kế đến, sản lượng khai thác ở mức cao kỉ lục của Mỹ đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
IEA nhận định Nga sẽ là “nạn nhân lớn nhất của giá dầu giảm”. Lý do nằm ở tác động hội tụ đa chiều: Giá thấp đúng thời điểm Nga phải chịu tác động từ các lệnh cấm vận và đồng ruble mất giá. Trong bối cảnh này, Moskva không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc xem xét lại các đề án phát triển đối với các mỏ ngoài khơi, phi truyền thống. Nó được thể hiện qua việc Nga cố gắng giữ thị phần dầu mỏ với việc ký kết các hợp đồng dài hạn, chuyển hướng thị trường, trong đó có kế hoạch hướng Đông.
Để đạt được mục tiêu này, Nga phải đẩy nhanh việc khai thác ở Bắc Cực và Đông Siberia, hoặc là thay đổi cấu trúc ngành dầu mỏ. Cả hai lựa chọn này đều đụng phải thách thức đến từ đòn bao vây, cấm vận của phương Tây: 1/ Hoạt động của ngành năng lượng khựng lại do bị hạn chế tiếp cận với công nghệ, tài chính và tác động này không chừa bất kể một tập đoàn nào, từ Gazprom, Lukoil tới Rosneft; 2/ Các dự án khai thác ở vùng nước sâu như Siberia, Bắc Cực cũng khốn đốn, với việc các đối tác như Total, ExxonMobil đều đã rút khỏi liên doanh với Nga. Vòng xoáy còn chưa dừng lại ở đó. Việc đồng ruble liên tục rớt giá từ cuối năm 2014 đến nay buộc Ngân hàng Trung ương Nga phải can thiệp bằng bước áp mức lãi suất cao, đẩy gánh nặng về vốn, nợ, làm tăng