TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

4 principles for better decision-making

“Optimism is the engine of capitalism,” Dr Kahneman said. “Overconfidence is a curse. It’s a curse and a blessing. The people who make great things, if you look back, they were overconfident and optimistic – overconfident optimists. They take big risks because they underestimate how big the risks are.”

But by studying only the success stories, people are learning the wrong lesson.

Chiến tranh thương mại toàn cầu liệu có xảy ra?

http://nghiencuuquocte.org/2017/02/15/chien-tranh-thuong-mai-my-trung/

 

CASE STUDY NO.997: Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung sẽ như thế nào?

Donald Trump phỉ báng chính phủ Trung Quốc trong chiến dịch tranh cử, cáo buộc quốc gia này đã thao túng tiền tệ, ăn cắp tài sản trí tuệ của Mỹ và “lấy đi công việc của chúng ta”. Sự thù địch này không chỉ là chiến lược cho mùa bầu cử. Năm 2012, Trump đã vu cáo Trung Quốc là đã tạo ra khái niệm về sự ấm lên toàn cầu để làm cho sản xuất của Mỹ trở nên kém cạnh tranh. Căng thẳng dâng cao: Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Quốc, đã nhắc nhở giới tinh hoa toàn cầu khi tụ họp tại Davos rằng “sẽ không có quốc gia nào nổi lên như người chiến thắng trong một cuộc chiến tranh thương mại”. Nếu Mỹ nhắm vào thương mại của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ đánh trả lại. Vậy, một cuộc chiến tranh thương mại giữa hai cường quốc kinh tế sẽ có thể diễn ra như thế nào?

Có hai cách thức mà luận điệu có thể chuyển thành hành động. Ông Trump có thể chỉ đơn thuần là nỗ lực thực thi các quy tắc thương mại toàn cầu trong phòng xử án của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vì Mỹ không có thỏa thuận thương mại song phương với Trung Quốc, các quy tắc của WTO sẽ xác định những gì được phép và không được phép. Ông Trump có thể, với một số lý lẽ biện minh, cáo buộc Trung Quốc đã thúc đẩy kinh tế thông qua trợ cấp và làm tràn ngập một số thị trường Mỹ với các hàng nhập khẩu giá rẻ. Ông cũng sẽ thấy rằng chính quyền Obama đã khởi xướng một số vụ kiện chống lại Trung Quốc tại WTO.

Cấp dưới của ông đã gợi ý rằng chính quyền Trump có thể nên đi xa hơn, chẳng hạn bằng cách tiến hành các vụ kiện chống lại những công ty bị nghi ngờ bán phá giá của Trung Quốc, hơn là để cho các công ty Mỹ tự đi kiện. Dù nhiều khả năng Trung Quốc sẽ trả đũa, ví dụ như bằng một phát hiện bất ngờ rằng thực phẩm xuất khẩu của Mỹ gây ra những vấn đề sức khỏe và an toàn; nhưng chuỗi sự kiện này không nhất thiết phải biến thành một cuộc chiến tranh thương mại. Các quy tắc của WTO được thiết kế đặc biệt để xử lý loại tranh chấp này. Nếu nó phát hiện ra rằng Trung Quốc thực sự không chơi theo luật, thì sẽ có những giới hạn rõ ràng về cách Mỹ có thể trả đũa. Nếu hệ thống hoạt động như vậy, việc leo thang các lời buộc tội lẫn nhau sẽ được ngăn chặn.

Nhưng một loạt biện pháp trả đũa dựa trên các quy tắc trong khuôn khổ WTO không phải là điều mà các nhà kinh tế nghĩ tới khi nói về kịch bản tồi tệ nhất đối với thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Nỗi sợ hãi lớn nhất đó là ông Trump sẽ quyết định bỏ qua các quy tắc của WTO, hoặc mặc kệ chúng hoàn toàn sau khi một phán quyết được đưa ra không theo cách mà ông ta mong muốn.

Mức thuế suất 45% đối với nhập khẩu từ Trung Quốc có thể được áp dụng thực tế với hàng điện tử và quần áo sản xuất tại Trung Quốc. Nếu giá cả trong nước tăng lên, người mua hàng Mỹ sẽ cảm thấy sự tác động – đặc biệt là người nghèo. Các công ty Mỹ dựa vào đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc cũng sẽ phải chịu tác động (một số công ty không ngại khi đầu vào của họ được trợ cấp bởi chính phủ Trung Quốc). Mức thuế suất chung 45% đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc rõ ràng sẽ vi phạm quy tắc của WTO, và Trung Quốc sẽ không chờ đợi một phán quyết chính thức để trả đũa. Một động thái chiến lược có thể là kiềm chế nhập khẩu đậu tương Hoa Kỳ của Trung Quốc – điều sẽ chọc giận đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, một người đến từ Iowa, một bang nông nghiệp.

Sẽ có một số người thắng trong một cuộc chiến tranh thương mại: trong ngắn hạn chính phủ Mỹ có thể thấy doanh thu thuế nhiều hơn, và một số công ty Mỹ sẽ được hưởng sự che chở khỏi cạnh tranh từ nước ngoài.

Nạn nhân lớn nhất thậm chí có thể không phải là người tiêu dùng Mỹ. Sau Thế chiến II, các nước giàu phối hợp để tránh một cuộc đua hướng tới mức thuế cao hơn, điều này đã tạo ra Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT), sau đó vào năm 1995 đã phát triển thành WTO. Bằng cách tập trung lại cùng nhau, họ đã nhận ra sự tàn phá của những năm 1930, khi các quốc gia dựng lên các rào cản thương mại để bảo vệ nền kinh tế trong nước của mình nhưng cuối cùng lại làm tổn hại đến bản thân. Một cuộc chiến tranh thương mại sẽ có nghĩa là từ bỏ một thể chế vốn công nhận rằng các quốc gia sẽ mạnh hơn khi họ hợp tác cùng nhau.

CASE STUDY N0.995: CHỈ SỐ PMI

Chỉ số Purchasing Managers Index (Quản lý thua mua) – PMI

Chỉ số Quản lý Thu mua (PMI) là chỉ số đo lường “sức khoẻ” kinh tế của ngành sản xuất. PMI dựa trên năm chỉ số thành phần chính: đơn đặt hàng mới, mức tồn kho, sản xuất, giao hàng từ nhà cung ứng và môi trường lao động. Mục đích của PMI là cung cấp thông tin về các điều kiện kinh doanh hiện tại cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích và quản lý mua hàng của các công ty/tập đoàn.

Dữ liệu để tạo thành báo cáo PMI được thu thập bằng cách sử dụng các cuộc khảo sát hàng tháng gửi đến các giám đốc điều hành mua hàng tại khoảng 300 công ty. PMI trên 50 tương ứng với sự mở rộng hoạt động sản xuất so với tháng trước. Một chỉ số PMI dưới 50 cho thấy sự chững lại, và một chỉ số ở ngay mức 50 nghĩa là không có thay đổi. Viện Quản lý Cung ứng (The Institute of supply Management) là cơ quan công bố chỉ số PMI mỗi tháng. Mặc dù ISM còn phát hành một số chỉ số khác, PMI là dữ liệu được áp dụng rộng rãi nhất và đôi khi nó còn được gọi là chỉ số ISM.

 

 

PMI ảnh hưởng các quyết định của các quản lý thu mua trong doanh nghiệp như thế nào?

PMI là một công cụ ra quyết định quan trọng cho các nhà quản lý trong nhiều vai trò khác nhau. Ví dụ, một nhà sản xuất ô tô đưa ra quyết định sản xuất dựa trên đơn đặt hàng mới mà họ mong đợi từ khách hàng trong những tháng tới. Những đơn đặt hàng mới sẽ thúc đẩy các quyết định mua hàng của quản lý về số lượng phụ tùng và nguyên liệu, như thép và nhựa. Số dư hàng tồn kho hiện tại cũng giúp các công ty dự đoán được lượng sản xuất mà nhà sản xuất cần hoàn thành để hoàn tất đơn hàng mới và giữ một số hàng tồn kho vào cuối tháng.

Các nhà cung ứng cũng đưa ra các quyết định dựa trên PMI. Một nhà cung cấp phụ tùng cho nhà sản xuất sẽ dựa trên PMI để ước lượng lượng nhu cầu trong tương lai cho các sản phẩm của mình. Nếu đơn đặt hàng mới của nhà sản xuất đang mở rộng, ví dụ, họ có thể tăng giá khách hàng và chấp nhận sự tăng giá từ các nhà cung cấp của nó. Mặt khác, khi các đơn đặt hàng mới giảm, nhà sản xuất có thể phải giảm giá bán và yêu cầu chi phí thấp hơn cho các linh kiện thu mua.

Một công ty sử dụng tất cả thông tin PMI này để lập kế hoạch ngân sách hàng năm, số lượng nhân viên và dự báo dòng tiền.

 

 

Vai trò của PMI trong nhập khẩu và xuất khẩu

PMI cũng cung cấp thông tin về hàng nhập khẩu và xuất khẩu, đây là số liệu thống kê quan trọng cho các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài. Giả sử, ví dụ, nhà sản xuất ô tô mua thép tại Hoa Kỳ và từ Trung Quốc. Nếu nhập khẩu đang gia tăng, xu hướngđó sẽ có tác động tiêu cực đến các công ty Mỹ khi bán cùng một sản phẩm. Mặt khác, nếu xuất khẩu của các nhà sản xuất phụ tùng tăng lên, thì một nhà cung cấp linh kiện có thể yêu cầu giá cao hơn từ các công ty Mỹ khi cần mua sản phẩm của họ.

PMI trong việc xác định tình hình nền kinh tế quốc gia

Chỉ số PMI cho thấy tình hình kinh tế khá tổng quát trong cả ngành sản xuất lẫn dịch vụ. Do đó, đây có thể được xem là một thước đo quan trọng cho mức độ phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là khi xem xét lĩnh vực sản xuất. PMI cho thấy mức độ “sôi động” của việc mua bán trong lĩnh vực sản xuất trong một 1 tháng và các thay đổi qua hàng tháng sẽ phản ánh rõ ràng tốc độ tăng trưởng/suy yếu của khu vực dịch vụ và sản xuất. Đồng thời, nó cũng cho các Trader đánh giá được tiềm năng của các chỉ số khác như giá tiêu dùng CPI, tổng sản phẩm quốc nội GDP… và từ giúp chúng ta dần đoán biết được nền kinh tế Hoa Kỳ đang ở vị trí nào, có như mong đợi của các nhà hoạch định chính sách hay không.

 

PMI là một chỉ số trong top “các chỉ báo kinh tế cần được theo dõi bởi Trader” và mỗi tháng vào thời điểm công bố PMI của một trong các đồng tiền tệ chính, thị trường đều sẽ biến động mạnh. Trader nắm bắt được điều này có thể giảm thiểu rủi ro và nắm lấy cơ hội giao dịch từ chỉ số PMI.

CASE STUDY N0.994 :DỰNG SỔ – CÔNG CỤ GỌI VỐN HỮU HIỆU CHO DOANH NGHIỆP

1-Phương pháp dựng sổ là gì?

Phương pháp dựng sổ là quá trình mà qua đó nhà bảo lãnh phát hành chính cố gắng xác định mức giá chào bán chứng khoán dựa trên nhu cầu của các nhà đầu tư tổ chức.

Một công ty bảo lãnh phát hành chính dựng sổ dựa trên nhu cầu bằng cách nhận lệnh từ các công ty quản lý quỹ đầu tư, xác định số lượng cổ phần họ mong muốn và mức giá họ sẵn sàng trả.

Dù là một thương vụ mua bán cổ phần, hay một đợt phát hành lần đầu (IPO), trên cơ sở cam kết dài hạn với nhà đầu tư, nhà bảo lãnh phát hành chính là kênh duy nhất cung cấp các thông tin về doanh nghiệp phát hành, cũng như về đợt chào bán.

2-Đặc điểm của phương thức dựng sổ

Tất cả các phương thức dựng sổ đều có những đặc điểm:

– Được thực hiện trong một khung thời gian nhất định (vài giờ cho tới 2 tuần);

– Thông tin về nhu cầu theo thời gian thực được minh bạch hóa tới các nhà bảo lãnh phát hành, các cổ đông chào bán và đơn vị phát hành;

– Các điều khoản (bao gồm khoảng giá, ngày công bố) có thể được thay đổi trong quá trình dựng sổ để phù hợp với phản ứng của thị trường;

– Kết thúc bằng việc đàm phá về mức giá và phân bổ chứng khoán tối ưu mà các cổ đông đều đồng ý. Sau khi định giá, việc phân bổ được công ty bảo lãnh phát hành chính đảm bảo thực hiện;

– Các công ty bảo lãnh phát hành chính đảm bảo với các cổ đông chào bán và bên phát hành rằng, việc phân bổ chứng khoán sẽ được thực hiện theo đúng cam kết.

3-Nguyên tắc trong hoạt động dựng sổ

Theo sau một hoạt động dựng sổ và xác định giá thành công, công ty bảo lãnh phát hành chính sẽ khuyến nghị việc phân bổ cho các cổ đông chào bán và bên phát hành dựa trên các nguyên tắc:

– Ưu tiên nhà đầu tư với khối lượng mua lớn, tập trung vào dài hạn;

– Khả năng mua trên thị trường thứ cấp và hỗ trợ thanh khoản cho cổ phiếu;

– Đóng góp vào việc phản hồi thông tin và định;

– Sự đồng nhất giữa lệnh đặt và khả năng tài chính của nhà đầu tư;

– Giảm trường hợp “ăn theo” và khả năng điều khiển giá cả trên thị trường thứ cấp.

Có một yếu tố cần đặc biệt lưu ý là việc ổn định trên thị trường thứ cấp. Theo đó, có thể có 3 kịch bản:

Thứ nhất, giá cổ phiếu diễn biến tích cực, không cần mua vào để ổn định giá. Các phương án phát hành vượt mức được thực hiện, quy mô thương vụ tăng khi kích hoạt phương thức “greenshoe” (cho phép phát hành thêm không quá 15%).

Thứ hai, giá cổ phiếu ban đầu giảm, nhưng sau đó hồi phục, một số giao dịch ổn định giá được thực hiện khi giá rơi xuống mức giá chào bán.

Có thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ việc kích hoạt lựa chọn phát hành thêm (phương thức “overallotment” cho phép nhà bảo lãnh phát hành được phát hành thêm 15%) trong trường hợp các cổ phiếu mua trước đó được bán lại trên thị trường.

Thứ ba, giá cổ phiếu giảm và tiếp tục giảm bất kể mọi nỗ lực bình ổn giá. Các cổ phiếu được phát hành thêm được thực hiện mua lại. Phương án phát hành thêm không được thực hiện và quy mô thương vụ cuối cùng giữ nguyên như quy mô ban đầu.

4-Kinh nghiệm tham khảo

Tại đợt chào bán cổ phiếu lần đầu trị giá 1,9 tỷ USD theo phương pháp dựng sổ của Google năm 2004, Morgan 
Stanley giành vị trí chủ chốt trong việc dựng sổ và vận hành hệ thống sổ lệnh tổng.

Quá trình chào bán được Google lựa chọn nhằm đạt được các mục tiêu: Thực hiện một quy trình công bằng cho cả nhà đầu tư lớn và nhỏ; đảm bảo một kết quả thành công cho Google và cổ đông; xác định giá cổ phần phản ánh đúng giá trị thị trường và đảm bảo giá giao dịch thứ cấp ổn định.

Quy trình đấu giá của Google bao gồm 5 bước chính: duyệt hồ sơ (từ 30/7 đến 12/8); bỏ thầu đấu giá (từ 13/8 đến 18/8); kết thúc đấu giá (18/8); định giá (18/8); phân bổ (18/8).

Theo đó, tất cả nhà đầu tư đều có ID đấu thầu trước khi tiến hành đợt đấu giá. Các mức giá đấu đều là chào mua có điều kiện. Tất cả các đơn thầu đều được cộng dồn trên sổ lệnh tổng, trong đó các mức giá thầu được liệt kê trên cơ sở từng tài khoản. Tất cả các bên bỏ thầu được yêu cầu chấp nhận việc chuyển giao hồ sơ và các thông báo thông qua thư điện tử liên quan tới vụ IPO.

Định giá dựa trên giá thanh toán theo công bố của tất cả các giá bỏ thầu và phân tích phân bổ thầu được đưa vào trong quá trình đấu giá. Phân bổ dựa trên công thức và không có ưu tiên cho bất kỳ nhà đầu tư nào, hay mức bỏ thầu nào. Kết quả là giá thị trường đạt được cho phiên chào bán cổ phần đạt tới 24,6 tỷ USD.

CASE STUDY N0.990 : Không phải “Sell in May”, tháng 11 mới là ác mộng thực sự với TTCK Việt Nam

1-Tháng 11, cơn “ác mộng” thực sự với TTCK Việt Nam

Trái với những quan niệm mang tính truyền thống, trên thực tế không phải tháng 5, tháng 8, tháng 9 mà thời điểm xấu nhất với TTCK Việt Nam lại rơi vào tháng 11.

Đối với nhà đầu tư chứng khoán, câu nói “Sell in May and go away” có lẽ không còn quá xa lạ với ám chỉ thị trường trong tháng 5 thường diễn biến khá phức tạp và không thực sự thuận lợi cho việc đầu tư.

Tuy nhiên, đối với TTCK Việt Nam thì dường như “Sell in May” có lẽ không hoàn toàn chính xác. Thống kê từ năm 2008 đến nay cho thấy diễn biến trên TTCK Việt Nam khá cân bằng với 5 lần tăng và 5 lần giảm.

Tháng 7 âm lịch, thường rơi vào tháng 8 hoặc tháng 9 dương theo quan niệm dân gian cũng là thời điểm không thích hợp cho đầu tư. Tuy nhiên, cũng giống như “Sell in May”, thống kê cho thấy diễn biến TTCK Việt Nam trong giai đoạn tháng 7 âm cũng không quá xấu với số lần tăng, giảm điểm bằng nhau.

Trái với những quan niệm mang tính truyền thống, trên thực tế không phải tháng 5, tháng 8, tháng 9 mà thời điểm xấu nhất với TTCK Việt Nam lại rơi vào tháng 11.

Tính từ năm 2008 đến nay chỉ số VnIndex có tới 8 lần giảm điểm trong tháng 11, chỉ có duy nhất 1 lần tăng điểm vào năm 2013 với mức tăng vỏn vẹn 2,08%. Trong khi đó, những lần điều chỉnh vào tháng 11 thường có biến động khá mạnh, thậm chí có những năm giảm trên 5% như 2008; 2009; 2011; 2014 và 2015.

Ngược lại, diễn biến tích cực của TTCK Việt Nam thường rơi vào giai đoạn tháng 3, tháng 4 với số lần tăng điểm áp đảo.

Xu hướng TTCK Việt Nam thường tiêu cực trong tháng 11 (biến động %)

Việc TTCK thường có biến động xấu vào tháng 11 có nguyên nhân bởi đây là quãng thời gian khối ngoại, đặc biệt các quỹ ETF thường tiến hành bán ròng sau khi thực hiện mua ròng trước đó. Ngoài ra, tháng 11 cũng là lúc mùa KQKD quý 3 qua đi, trong khi KQKD cả năm chưa tới khiến thị trường rơi vào vùng trũng thông tin hỗ trợ, khiến tâm lý giới đầu tư trở nên thận trọng hơn.

2-Tháng 11 năm nay ra sao?

Chưa cần đến tháng 11, TTCK Việt Nam hiện đang có những biến động khá dữ dội. Mặc dù chỉ số VnIndex liên tục tăng điểm trong thời gian gần đây nhưng đà tăng chỉ đến từ một vài Bluechips dẫn tới hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” và không ít nhà đầu tư đã đánh mất thành quả từ đầu năm, thậm chí thua lỗ.

Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 10, VnIndex đã đảo chiều giảm gần 8 điểm với áp lực bán lan rộng trên toàn thị trường. Trong khi đó, một số cổ phiếu chủ chốt giúp VnIndex đứng vững trong giai đoạn vừa qua đã có dấu hiệu suy yếu khiến thị trường thiếu đi lực đỡ và đối mặt với nguy cơ tiếp tục điều chỉnh. Nhận định của các CTCK hiện đang nghiêng về kịch bản không tích cực trong ngắn hạn.

Mùa báo cáo KQKD quý 3 cũng đã khép lại với số lượng doanh nghiệp có lợi nhuận sụt giảm chiếm áp đảo và điều này càng khiến thị trường thêm phần ảm đạm.

Tuy vậy, thị trường hiện không chỉ toàn gam màu xám mà vẫn có một số điểm tích cực. Trong 4 phiên giao dịch gần nhất, khối ngoại đã trở lại mua ròng, dù con số vẫn chưa thực sự thuyết phục nhưng nếu lực mua tiếp tục được duy trì thì đây sẽ là yếu tố hỗ trợ cho thị trường.

Bên cạnh đó, diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (Apec) chuẩn bị khai mạc trong tháng 11 tại Việt Nam cũng được kỳ vọng sẽ mang đến cú huých cho thị trường.

Trên thị trường quốc tế, chỉ số Dow Jones vẫn liên tiếp chinh phục đỉnh cao mới, trong khi giá dầu Brent đã vượt đỉnh 2 năm cũng có thể là những yếu tố tích cực cho TTCK Việt Nam nói chung và nhóm cổ phiếu dầu khí nói riêng.

 

 

CASE STUDY N0.989 : CÓ PHẢI G.SOROS LÀ “KẺ GIẬT DÂY “ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1977 ?

Trước năm 1997, kinh tế ở các nước Đông Á có thể nói là rất ổn, vẫn tiếp tục phát triển sau một thời gian dài tăng trưởng ngoạn mục. Ngoại trừ một số vướng mắc nho nhỏ, như sự gắn chặt đồng nội tệ với đồng USD, chính sách tự do tài khoản vốn, lỏng lẻo trong kiểm soát tài chính… Thế mà, đùng một cái – khủng hoảng tiền tệ. Trước hết, đồng Baht mất giá thê thảm ở Thái Lan, sau đó nhanh chóng lan tỏa sang Hàn Quốc, Indonesia, rồi tới Hồng Kông, Malaysia, Philippines. Không dừng lại, chỉ mấy tháng sau, cuộc khủng hoảng đã mang tính toàn cầu khi lôi kéo Nga, Brasil vào vòng xoáy. Rất may, cùng với Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Việt Nam nằm trong nhóm các nước ở châu Á ít bị ảnh hưởng nhất.1 Vì sao khủng hoảng lại xảy ra nhanh như vậy? Đây là hiện tượng mang tính qui luật tất yếu hay có một bàn tay tàng hình nào đó giật dây? Thực tế diễn biến khủng hoảng tiền tệ tại các nước Đông Á luôn cho chúng ta cảm giác, có một thỏa thuận ngầm nào đó, khiến người ta đang hợp sức để phá giá đồng tiền của các quốc gia ASEAN. Có thật vậy không? Và nếu có thì để làm gì? Hơn 10 năm trôi qua, đã có hàng nghìn trang sách về sự kiện này, nhưng các nhà kinh tế vẫn tiếp tục đi tìm câu trả lời thỏa đáng.

Nguy cơ tiềm ẩn
Mùa hè năm 1997, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hàn Quốc, các con rồng con hổ châu Á, đang là điểm đến lý tưởng của giới đầu tư trên khắp thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao, ổn định (trung bình 8-10%), lãi suất đầu tư hấp dẫn, thị trường chứng khoán và nhu cầu tiêu dùng cao cấp phát triển vượt bậc. Bấy nhiêu thôi cũng đủ thu hút dòng tiền đầu tư trên toàn thế giới đổ dồn về đây, đặc biệt là dòng đầu cơ tài chính ngắn hạn.
Mô hình kinh tế của các nước Đông Á lúc này cơ bản là theo mô hình của chủ nghĩa vị tiền hiện đại (monetarism).2 Chính sách tài chính tiền tệ vĩ mô sẽ quyết định hiệu quả sản xuất. Lạm phát, tỷ giá, thu hút đầu tư là những vấn đề quan tâm hàng đầu của chính phủ. Cũng không có gì lạ, vì lý thuyết này đến thời nay vẫn rất thịnh hành ở các nước phương Tây. Duy chỉ có hai điểm đặc biệt đáng lưu ý. Thứ nhất, sản xuất tập trung vào xuất khẩu và quan tâm đặc biệt để đáp ứng nhu cầu trên thị trường Mỹ. Thứ hai, gắn chặt đồng tiền quốc gia vào đồng USD. Làm như vậy rõ ràng có nhiều cái lợi, nhưng cũng không ít cái hại. Tự nhiên nền sản xuất trong nước lại phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu trên thị trường Mỹ, cơ sở hạ tầng cũng thế. Trong khi đó, nhu cầu của thị trường nội địa gần như bị lãng quên. Về lâu dài, nền kinh tế quốc gia sẽ mất dần tính chủ động. Đó là cái hại thứ nhất. Gắn chặt đồng tiền quốc gia vào đồng USD, cảm giác an toàn sẽ tăng lên. Chỉ có điều khi chính sách tiền tệ của USD thay đổi, đồng tiền quốc gia bắt buộc cũng phải thay đổi theo, bất chấp tình hình thực tế trong nước như thế nào. Đơn cử, bắt đầu từ giữa những năm 1990, Cục dự trữ Liên bang Mỹ, dưới dự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu thực hiện chính sách tăng lãi suất tín dụng của đồng USD để giảm thiểu nguy cơ lạm phát. Lãi suất tăng, tiền từ các khu vực vốn có lợi nhuận cao bắt đầu đổ ngược về Mỹ. Phản ứng của các thành viên Đông Á, không có gì ngạc nhiên, là đồng loạt tăng lãi suất (vốn đã quá cao) hòng giữ chân các nhà đầu tư. Đồng tiền quốc gia tăng giá, dĩ nhiên là năng lực cạnh tranh, đặc biệt lợi thế xuất khẩu sẽ giảm đi rất nhiều. Trong khi, tại Mỹ, uy tín của đồng USD ngày càng tăng, mà sản phẩm nội quốc cũng được đà phát triển.

 

Bàn về vấn đề này, ngay từ năm 1994, nhà kinh tế Mỹ Paul Krugman (MIT) đã lên tiếng cảnh báo về sự thật của các “thần kỳ kinh tế Đông Á”. Ông cho rằng tăng trưởng kinh tế nhờ “bơm” nguồn vốn đầu tư không mệt mỏi từ bên ngoài mà không tạo được những bước tiến thực chất trong sản xuất cũng như nâng cao năng suất sản xuất tổng hợp thì khó có thể mang lại sự thịnh vượng lâu dài.3 Các nước Đông Á có nghe nhưng không mấy để tâm tới lời cảnh báo này. Đơn giản là vì trong thâm tâm họ vẫn nghĩ, sẽ không thể có chuyện gì xảy ra, bởi bên cạnh họ đã có một người bạn lớn, như bức thành trì vững chãi – Hoa Kỳ. 

Diễn biến
Thế rồi, chuyện gì phải đến đã đến.
Thái Lan. Đầu năm 1997, một số quỹ đầu cơ tài chính sừng sỏ như Quantum (George Soros) hay Tiger Management Corp. (Julian Robertson) đã ký hàng loạt các hợp đồng mua bán ngoại tệ có thời hạn (bán đồng Baht Thái, với thời hạn thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm) với tổng trị giá lên tới 15 tỷ USD. Người ta đang đánh cược là trong tương lai đồng Baht sẽ phá giá. Trong bối cảnh nền kinh tế khan hiếm USD tiền mặt, những kiểu hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như thế này rất thông dụng. Do đó đến Ngân hàng Nhà nước Thái Lan cũng cảm thấy không có chuyện gì đáng ngại, thậm chí còn xem đây là một trong những phương pháp hữu hiệu đảm bảo vốn lưu thông cho nền kinh tế. Mãi phải đến giữa tháng 5, khi những dấu hiệu tiền khủng hoảng xuất hiện, Ngân hàng Thái Lan mới ra quyết định tạm ngừng những kiểu hợp đồng như thế, nhưng đã quá muộn. Ngày 14-15 tháng 6 năm 1997, thị trường tiền tệ ở Thái tràn ngập lệnh bán đồng Baht. Ngân hàng Nhà nước cố sức giữ giá, trong suốt 2 tuần đã chi ra gần 10 tỷ USD để mua đồng Baht và giữ tỷ giá hối đoái ở mức bình thường 25 baht 1 USD. Nhưng không ăn nhằm gì với làn sóng “rũ bỏ” đồng Baht loang ngày càng rộng trên khắp thế giới. Chính phủ Thái đã vùng vẫy bằng mọi cách: từ dụ dỗ, dọa nạt, răn đe giới tài chính cũng như giới báo. Thậm chí cả làm động tác giả. Ngày 30 tháng 6, Thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh vẫn cố sống cố chết “sẽ không phá giá baht”, thế mà chỉ 2 ngày sau, 2 tháng 7, baht lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1USD. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.

 

Tại Phippines sự kiện cũng phát triển theo một kịch bản tương tự. Duy có khác là chính phủ nơi đây đã kịp thời ngăn chặn được các đợt tấn công trực tiếp của giới đầu cơ tài chính toàn cầu. Thay vì trực tiếp ra mặt mua peso để giữ giá, chính phủ Philippines đã cho tăng lãi suất ngắn hạn (cho vay qua đêm) từ 15% lên tới 24% (03.07.1997). Cách này có hiệu quả, tuy không ngăn chặn được xu hướng mất giá đồng peso, nhưng giảm thiểu tối đa thiệt hại. Đồng peso mất giá từ: 26peso/1 USD trước khủng hoảng, xuống 38 peso/1 USD vào năm 2000. Đây được xem là một thành công lớn.Kịch bản khủng hoảng ở các nước khác như Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông đều diễn ra với những nét tương đồng. Tuy nhiên, hậu quả thì mỗi nơi mỗi khác, phụ thuộc vào khả năng ứng phó trong điều kiện khủng hoảng của chính phủ và năng lực cũng như cơ cấu của nền kinh tế. Duy chỉ có điều ai cũng biết, thiệt hại mà khủng hoảng đưa lại cho các nước châu Á là quá lớn, dư âm của nó vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay.4

Thực chất đã xảy ra chuyện gì?
10 năm là một khoảng thời gian đủ dài để chúng ta nhìn nhận những gì đã qua. Rõ ràng khủng hoảng tài chính châu Á 1997 hoàn toàn không ngẫu nhiên. Đó là một cuộc tấn công các nền kinh tế mới nổi, những con rồng con hổ châu Á, một cách có tổ chức. Vấn đề là ai tấn công và tấn công để làm gì? Thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad, ngay sau khủng hoảng, đã chỉ mặt gọi tên thủ phạm gây ra mọi chuyện chính là các tập đoàn đầu cơ tài chính với đầu chòm là tỷ phú quốc tịch Mỹ, người Hungary gốc Do Thái George Soros. Quả thật, G. Soros và đồng đội đã kiếm được hàng tỷ USD lợi nhuận sau vụ đầu cơ này. Bản thân G. Soros không phủ nhận việc mình đã kiếm bạc tỷ trong đợt khủng hoảng tiền tệ, Nhưng lại phủ nhận hoàn toàn động cơ của nó. Ông và các đồng nghiệp đơn gian chỉ là những nhà tài chính nhạy cảm, dám mạo hiểm và gặp may. Khủng hoảng kinh tế châu Á, theo G. Soros đó là hệ quả tất yếu báo hiệu một cuộc khủng hoảng lớn hơn nhiều – khủng hoảng tư bản toàn cầu.5
Một luồng ý kiến thứ 2 cho rằng, G. Soros nhận nhiệm vụ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ, tạo khủng hoảng để ra đòn cảnh báo ASEAN. Còn nhớ, tháng 5-1997, có nghĩa chỉ 2 tháng trước cuộc khủng hoảng, ASEAN đã phớt lờ sự phản đối của Mỹ và EU khi chính thức kết nạp Myanma làm thành viên. Cũng có thể, nhưng chưa thuyết phục. Đơn giản là vì chế độ quân sự ở Myanma đã được thiết lập từ năm 1962. Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong chừng ấy năm, biết bao nhiêu cơ hội, đâu cần chờ đến 35 năm mới ra tay.
Vậy thì ai? Ai là chủ nhân đích thực của khủng khoảng?
Kể ra cũng không khó lắm để nhìn thấy. Ai là người được hưởng lợi nhiều nhất từ khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 – người đó là chủ nhân.
G. Soros – dĩ nhiên, nhưng không phải mình ông ta. Chỉ xin liệt kê dưới đây một danh sách ngắn những công ty đã kịp thời “chiếm hữu” tài sản của các tập đoàn châu Á với giá bèo bọt:
– BNP Paribas thôn tính Peregrine, một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu châu Á. Đây là kết quả của đồng rupee Indonesia bị phá giá;
– Procter & Gamble nuốt chửng Ssanyong Paper của Hàn Quốc;
– General Motors mua với giá gần như cho không Daewoo Motor;
– Prudential Securities nắm quyền kiểm soát Nava Finance & Securities;
– First Pacific vươn tay tới San Miguel, công ty bia hàng đầu của Philippines;
– Citibank định thôn tính First Bangkok City Bank nhưng chưa thành công.
Danh sách này vẫn còn có thể kéo dài nữa, nhưng thôi. Rõ ràng, các chú hổ mới lớn châu Á, đang bị nhóm thợ săn dày dạn kinh nghiệm phương Tây săn đuổi với vai trò dẫn đường là các tay đầu cơ tài chính G. Soros và đồng đội. Yểm trợ phía sau chính là hai đại xạ thủ IMF và WB, với những khoản vay kèm điều kiện khắc nghiệt, mà nếu thực thi thì chỉ làm khủng hoảng ngày một trầm trọng thêm. Tài sản “săn” được cuối cùng sẽ được phân chia cho số đông theo danh sách kể trên, có tính đến sở thích và tích cách từng người.
Dĩ nhiên, để tổ chức một cuộc săn bắn qui mô như vậy không thể thiếu được người cầm chịch. Người đó là ai? Chẳng nhẽ lại là Mỹ – siêu cường số một thế giới? Hồ đồ, hãy học cách loại bỏ thói quen, buôn bán thua lỗ –  đổ lỗi cho số phận. Thất thế trong cạnh tranh quốc tế – đổ lỗi cho nước giàu. Nước Mỹ thì được lợi lộc gì trong vụ đi săn này?
Bị khủng hoảng tài chính “quần” cho một trận nên thân, các nước Đông Nam Á, sau đó là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Brasil, rồi loang rộng ra tất cả các nước thuộc thế giới thứ ba, ngậm ngùi nhận ra một chân lý bất di bất dịch: muốn phòng chống được khủng hoảng tài chính phải tích trữ thật nhiều ngoại tệ. Càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng yên tâm. Và dĩ nhiên, đã là ngoại tệ thì không có loại nào chắc chắn bằng USD. Thế là các nước đua nhau tích trữ USD, mà không hề nghĩ rằng mình đang tự nguyện tài trợ vốn, không lãi hoặc lãi suất rất thấp cho nền kinh tế Mỹ phát triển.
 Cái bẫy cuối cùng của khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 có phải là ở đây?

Và những cạm bẫy nào còn chờ ta phía trước?
Dù cái bẫy trên có có thật hay không, suy diễn của chúng tôi có đúng hay không, thì ta cũng hết sức cảm ơn cuộc khủng hoảng tài chính cách đây mười năm. Cuộc khủng hoảng đã cho chúng ta những bài học quí giá. Mà nhờ đó biết đâu, chúng ta có thể tránh được nhiều cạm bẫy khác trong tương lai. Bài học thứ nhất, phải chủ động trong mọi tình huống, đừng quá phụ thuộc và hy vọng vào một thứ, cho dù là thứ ta tưởng như chắc chắn nhất (ví như sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và độ bền vững của đồng USD). Thứ hai, tự do hóa thị trường vốn là một việc làm nguy hiểm, hãy cảnh giác. Hãy lượng sức mình để cởi và mở hệ thống tài chính, bởi đó là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia. Nếu để người ngoài dễ dàng kiểm soát và điều khiển ví tiền của nhà mình thì ôi thôi, còn gì để nói nữa. Thứ ba, đừng quá tin tưởng vào các đơn thuốc của các tổ chức tài chính quốc tế (như IMF hay WB), bởi nhiều khi chính họ cũng là đồng tác giả của các trò chơi toàn cầu. Thứ tư, kêu gọi đầu tư, vay mượn tín dụng, làm gì cũng phải hết sức thận trọng. Mục tiêu tăng trưởng cao là tốt. Nhưng không tăng trưởng bằng vay mượn, bằng thu hút đầu tư thiếu thanh lọc. Nếu đảm bảo được mức tăng trưởng ổn định nhờ tăng hiệu suất và sức mạnh sản xuất thực tế là quí nhất. Thứ năm, sống trong thế giới đa cực hôm nay, mỗi quốc gia cũng như mỗi con người đều phải hết sức tỉnh táo, minh mẫn để nhìn rõ bản chất của vấn đề, thấu hiểu sự vận động xung quanh mình. Quyền lực thực sự hiện nay, nếu không thuộc về các cường quốc thì cũng đang nằm trong tay các công ty đa quốc gia và các tập đoàn tài chính khổng lồ. Thế giới luôn thuộc về kẻ mạnh. Những kẻ cùng mạnh sẽ dễ dàng liên kết, điều khiển cuộc chơi toàn cầu để cùng hưởng lợi. Những nền kinh tế nhỏ như chúng ta, nếu không thể lớn mạnh lên được như họ thì không có cách nào khác là phải học được cách ứng xử thông minh. Chí ít cũng phải như Singapore, Hồng Kông, Philippines, hay Trung Quốc 10 năm trước đây.
Thật khó nói, những gì đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Chỉ có điều này là chắc chắn. Kinh tế Mỹ đang đứng trước những thử thách lớn. Đồng đô la đang mất giá cả về giá trị thực và giá trị niềm tin trong cộng đồng thế giới. Với sự xuất hiện của đồng Euro và sự hồi phục của kinh tế Nhật Bản, sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc, đại đa số các nước đang tái cấu trúc lại nguồn dự trữ quốc gia. Và dĩ nhiên, thị phần của đồng USD đang ngày một thu hẹp. Đó là tín hiệu bất an cho nền kinh tế Mỹ và cũng là nỗi lo của chúng ta, có thể một cuộc khủng hoảng tiền tệ mới đang chờ nhân loại ở phía trước.
Tài liệu tham khảo
1. Geogre Soros. The Crisis of Global Capitalism. N.Y.: PuplicAffairs, 1999. M.: INFRA-M, 1999. pp. 149-190.
2. Margaret Thatcher. Statecraft. London. Harper Collins Publishers. 2003. pp.141-146.
3. Deliagin M. World Crisis: General Theory of Globalization. M.: INFRA-M, 2003. pp.304-323.
——–
1 Công đầu thuộc về chính phủ và ngành tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, 10 năm trước, nền kinh tế của chúng ta vẫn chưa được xem là một nền kinh tế mở. Chính “khiếm khuyết” này đã giúp chúng ta “né” được nhiều đòn tấn công của của khủng hoảng tiền tệ toàn cầu.
2  Mô hình này khác với mô hình của Hàn Quốc. Hàn Quốc phát triển dựa chủ yếu các gia đình đại gia (chaebol), chính sách tín dụng nội quốc và mối quan hệ trên mức mật thiết giữa chính phủ và chaebol.
http://web.mit.edu/krugman/www/myth.html
4 Chi tiết diễn biến của cuộc khủng hoảng có thể xem thêm tại: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. //vi.wikipedia.org
5 Xem thêm Geogre Soros. The Crisis of Global Capitalism. N.Y.: PuplicAffairs, 1999.