TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0.30: Bài học Ngân hàng Đại Dương

1-Khác với NH Xây dựng, cơ cấu cổ đông của OceanBank trước khi được NHNN mua đa dạng hơn, bao gồm cả cổ đông trong nước, nước ngoài, pháp nhân tư nhân, pháp nhân quốc doanh:

. Do nắm giữ dưới 5% cổ phần, không phải cổ đông lớn, nên cổ đông nước ngoài không phải công khai danh tính.

-Hai cổ đông tổ chức sở hữu tỷ lệ lớn nhất cổ phần OceanBank là tập đoàn Đại Dương (OGC-Hose) 20% và tập đoàn Dầu khí PetroVietnam 20%;

2-Là một trong những tổ chức tín dụng có tốc độ tăng vốn điều lệ nhanh nhất hệ thống trong thời gian ngắn từ 300 triệu đồng ban đầu, được chấp thuận lên 5.350 tỉ đồng năm 2013 (nhưng chưa kịp tăng trong thực tế);

3-Ngày 25-4-2015 tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên, chỉ có 33% cổ đông biểu quyết nộp thêm tiền để tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng theo quy định của pháp luật.Theo điều lệ của OceanBank, mọi vấn đề của ngân hàng được thông qua khi có ít nhất 51% cổ đông biểu quyết đồng ý, nên tỷ lệ 33% kia không có tác dụng. Rõ ràng hoặc OGC hoặc PetroVietnam đã không tham gia biểu quyết, vì nếu cả hai cùng biểu quyết, tỷ lệ có thể đã đạt 40%.

4-Theo báo cáo tài chính hợp nhất quí 3-2014 của OGC, đến ngày 30-9-2014, OGC đã đầu tư 986,5 tỉ đồng vào OceanBank và đây là số tiền lớn nhất trong danh mục đầu tư vào các công ty liên kết của OGC;OGC là doanh nghiệp tư nhân, lỗ hay lãi cổ đông đều phải gánh chịu.

-Ông Hà Văn Thắm, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị OceanBank bị khởi tố, bắt tạm giam ngày 24-10-2014 và đúng sáu tháng sau các cổ đông OceanBank mất toàn bộ tiền góp mua cổ phần ngân hàng. Nói đúng hơn cái sổ chứng nhận quyền sở hữu cổ phần của họ vẫn còn đó, nhưng giá trị của nó đã về con số không.

-Trước đó, theo báo cáo tài chính hợp nhất quí 2-2014 và quí 3-2014 (báo cáo quí 3-2014 đã biến mất khỏi trang web của OceanBank, hiện tại chỉ còn báo cáo tài chính quí 2-2014)OceanBank vẫn có lãiNgay cả những cổ đông, nhà đầu tư kinh nghiệm cũng khó có thể hình dung giá trị cổ phiếu OceanBank mà họ có trong tay lại “bốc hơi” với tốc độ khủng khiếp đến vậy.

5-Tuy nhiên, PetroVietnam – một doanh nghiệp quốc doanh – sẽ hạch toán khoản mất vốn này ra sao, không ai biết vì nó chưa có tiền lệ. Liệu tập đoàn có phải giảm lợi nhuận do mất vốn ở OceanBank? Tiền góp vốn vào OceanBank là tài sản nhà nước và việc mất vốn này có phải là thất thoát tài sản nhà nước không? Nếu có, thì ai chịu trách nhiệm?

6-Giả sử PetroVietnam sớm cắt lỗ ở OceanBank, biết đâu còn vớt vát thu hồi được một khoản tiền nhất định. Nay thì cơ hội cắt lỗ đã vuột khỏi tầm tay và không bao giờ tìm lại được nữa!

-PetroVietnam là một trong những doanh nghiệp quy mô hàng đầu quốc gia, việc mất 800 tỉ đồng trên thực tế không thấm tháp gì so với vốn chủ sở hữu, với doanh thu, lợi nhuận và số nộp ngân sách hàng năm của tập đoàn. Song vấn đề không nằm ở con số tuyệt đối nhiều ít, vấn đề nằm ở quản trị doanh nghiệp.

-Vì sao một “ông lớn” có tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế, đến tăng trưởng GDP của cả nước như PetroVietnam lại đem tiền mua cổ phần ngân hàng? Hơn nữa lại là một ngân hàng quản trị kém đến mức nguyên chủ tịch hội đồng quản trị bị khởi tố, bắt tạm giam, đến mức bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt?  

CASE STUDY N0.28 : Cổ phần hóa: nếu và nếu không

Một nguyên tắc quan trọng khi ra quyết định đầu tư mà giới chuyên môn ai cũng thuộc nằm lòng là so sánh dòng tiền của nếu và nếu không đầu tư vào một dự án nào đó, trong trường hợp này là cổ phần hóa.

Cho đến giờ những phân tích trên chỉ đúng với giả thuyết các DNNN sau cổ phần hóa phải đem lại thành quả tốt hơn trước đó nếu do những ông chủ mới thật sự có khả năng điều hành.

Còn ngược lại, nếu sau cổ phần hóa mà toàn bộ doanh nghiệp rơi vào sân sau của ai đó và các nhóm lợi ích thì thất bại là cầm chắc. Tất cả mọi điều cần phải minh bạch mới hi vọng cổ phần hóa thành công.

Nhưng có một điều chắc chắn: với hoạt động của các DNNN hiện nay, càng chậm cổ phần hóa, thiệt hại cho cả nền kinh tế sẽ càng lớn.

CASE STUDY N0.27 :Tại sao giá gạo xuất khẩu VN thấp nhất thế giới?

Giá chào bán gạo của VN hiện đang ở mức thấp nhất trong số các quốc gia xuất khẩu gạo, tại sao? Làm cách nào để có đầu ra?

Trái với dự đoán, trong suốt thời gian triển khai mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo (2 triệu tấn lúa) diễn ra từ ngày 1-3 đến 15-4 vừa qua, giá gạo xuất khẩu của VN vẫn liên tục giảm.

Thấp kỷ lục

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tại ĐBSCL, giá chào bán gạo xuất khẩu của VN hiện chỉ còn 355-365 USD/tấn với loại gạo 5% tấm, thấp hơn 10 – 50 USD/tấn so với các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan…

Tuy nhiên, vẫn rất ít giao dịch được thực hiện trong thời gian qua dù các doanh nghiệp đã tồn kho khá lớn do mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo (tương đương 2 triệu tấn lúa) theo chủ trương của Chính phủ, ngoài ra còn lượng gạo mà các doanh nghiệp tự mua để kinh doanh.

Với mức giá chào bán như trên, giá gạo xuất khẩu của VN đang ở mức thấp nhất trong số các quốc gia xuất khẩu gạo chính.

Mức giá này thấp hơn 15 USD/tấn so với gạo Ấn Độ, 25 USD/tấn so với gạo Pakistan và 40 USD/tấn so với gạo của Thái Lan. Đây cũng là mức giá bán thấp nhất trong vòng năm năm qua của gạo VN.

CASE STUDY N0.26: Vì đâu nhà thầu Trung Quốc trúng thầu nhiều đến thế

Giải thích vấn đề này PGS.TS Nguyễn Quang Toản, nguyên chủ nhiệm Bộ môn cầu đường, Trường ĐH GTVT Hà Nội cho Báo Đất Việt biết: “Một là , bởi vì họ tích cực tham gia dự thầu. Hồ sơ dự thầu của họ đáp ứng những tiêu chuẩn mình đưa ra ví dụ, tiêu chuẩn kỹ thuật, tài chính người ta đều đạt, giá thầu thì có cái thấp, cái cao nhưng nói chung họ luôn đưa ra giá thầu thấp so với giá chung. Theo luật đấu thầu thì người ta trúng.

Đối với các dự án đầu tư lớn, yêu cầu năng lực tài chính lớn, thêm nữa là đã phải thực hiện vài ba công trình có quy mô lớn tương đương, cho nên các nhà thầu trong nước đến đó thì gặp khó khăn”.

“Nguyên do thứ hai là , vấn đề năng lực kỹ thuật, các nhà thầu trong nước cũng rất khó khăn. Trong quá trình phát triển, các nhà thầu VN mới chủ yếu làm trong nước, trong khi, các nhà thầu TQ, hay các nhà thầu quốc tế khác đã làm các công trình lớn ở nước họ hay ở nước ngoài hàng chục năm nay, họ có tiềm lực kỹ thuật, tài chính hơn hẳn các nhà thầu trong nước.

Như vậy, thì họ sẽ trúng thầu những công trình mà chúng ta yêu cầu cao về kỹ thuật, về tài chính là dễ hiểu. Trong thực tế cũng chỉ có cách chứng minh năng lực thật của các nhà thầu bằng cách nhìn vào các công trình DN đã thực hiện, đã hoàn thành phải là những công trình lớn, chất lượng tốt, làm đúng tiến độ, có quy trình quản lý chất lượng tiên tiến…

Nghĩa là Việt Nam đã đề ra những tiêu chuẩn cần thiết, nhưng các nhà thầu trong nước không đáp ứng được. Vì thế, các nhà thầu nước ngoài đặc biệt Trung Quốc trúng thầu“.

CASE STUDY N0.25: VINGROUP :Doanh số bán hàng dự kiến 2015 khoảng 40.000 – 60.000 tỷ”

Số lượng dự án năm 2015 bùng nổ nên năm 2015 là năm chín muồi để triển khai do tập đoàn đã chuẩn bị rất lâu thời gian trước, năm 2015 thị trường BĐS tăng trưởng vượt bậc so với năm trước, căn cứ khả năng của Vingroup sẽ tung ra những dự án đó để triển khai.

Chúng ta sẽ đưa ra thị trường đủ sản phẩn thị trường có nhu cầu, nên các dự án cân đối trên nền tảng đó.

Kế hoạch bán hàng dự kiến doanh số khoảng 40-60.000 tỷ, thừa đủ để triển khai các dự án đang làm, một phần kế hoạch để giảm bớt dư nợ hiện có. Mức dư nợ đang ở mức bình thường, chiếm khoảng 30% tổng tài sản nên chúng tôi tuyệt đối không lo ngại về vấn đề dư nợ.

CASE STUDY N0.23: Chậm cổ phần hóa DNNN: Vì sao nên nỗi?

Thiếu khung pháp lý riêng cho cổ phần hóa, vướng bài toán “được – mất” với lãnh đạo doanh nghiệp và đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài vẫn thấy DNNN kém hấp dẫn bởi tỉ lệ tham gia cổ phần thiểu số. Đây chính là những lí do khiến Việt Nam dường như đang cách rất xa mục tiêu tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.