TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0.986:IMF CẢNH BÁO VIỆT NAM ĐỐI MẶT NHIỀU RỦI RO

1-Hạ dự báo tăng trưởng:

+Hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam xuống 6,3% trong năm 2017 so với mức 6,5% đưa ra hồi tháng Năm.

+ Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2018 vẫn giữ nguyên ở mức 6,3%.

+ Quy mô nền kinh tế Việt Nam dự kiến đạt 215,4 tỷ USD cuối năm 2017 và tăng lên 232,7 tỷ USD năm 2018, tương ứng với mức GDP bình quan đầu người là 2.301 USD và 2.460 USD.

+ Lạm phát được dự báo ở quanh mức 5% do các loại phí do Nhà nước quản lý như giáo dục, y tế được điều chỉnh theo lộ trình. Cụ thể, chỉ số CPI bình quân sẽ tăng 4,9% trong năm 2017 và 4,8% năm 2018.

2-Rủi ro nào cho Việt Nam?

+ Dù triển vọng trong ngắn hạn của Việt Nam là tích cực, IMF chỉ ra một số rủi ro đối với Việt Nam trong thời gian tới.

+ Trong số các rủi ro bên ngoài:

 – Rủi ro tăng cao đối với các thị trường mới nổi hoặc sự lên giá của đồng đô la Mỹ có thể dẫn tới việc rút vốn và tạo sức ép đối với tỷ giá.

– Ngoài ra, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và Mỹ rút khỏi Hiệp định TPP có thể ảnh hưởng tới dòng vốn FDI và giảm đà cải cách doanh nghiệp nhà nước.

– Bên cạnh đó, đà tăng trưởng toàn cầu chậm lại và sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc có thể kéo giảm xuất khẩu.

– Giá dầu thấp có thể làm giảm doanh thu ngân sách, nhưng cũng có tác động tích cực đối với cán cân thương mại.

+ Về các rủi ro trong nước:

 -Rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng xuất phát từ tiến trình cấp vốn và xử lý nợ xấu chậm, và tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn cao.

– Nợ công cao làm hạn chế dư địa của Chính phủ trong việc xử lý các điểm yếu của ngành ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước, và đáp ứng nhu cầu đầu tư lớn của nền kinh tế.

-Với việc chính sách tiền tệ vẫn phụ thuộc nhiều vào sự ổn định của tỷ giá, lạm phát tăng có thể gây áp lực lên tỷ giá và khiến nhà đầu tư rút vốn.

– Chậm trễ trong cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ hạn chế sự phát triển của khu vực tư nhân và tác động tiêu cực đến tâm lý đầu tư.

3-IMF khuyến nghị gì?

+Các chuyên gia IMF ghi nhận nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng trưởng kinh tế nhanh đồng thời vẫn kìm chế lạm phát, tiến hành các cải cách nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân, cải thiện tài chính công và giải quyết các vấn đề tồn dư trong hệ thống tài chính.

+Các chuyên gia cho rằng việc thắt chặt tài khóa hiện nay là phù hợp, đồng thời ủng hộ kế hoạch giảm thâm hụt tài khóa xuống 3,5% GDP đến năm 2020 và giữ trần nợ công ở mức 65% GDP.

+Các chuyên gia IMF cho rằng Việt Nam nên giữ nguyên chính sách tiền tệ và chú ý tới các dấu hiệu lạm phát lõi tăng. Họ cũng khuyến nghị Việt Nam cần cải thiện điều hành chính sách tiền tệ, bằng việc cho phép tỷ giá hối đoái linh động hơn, và chuyển dần sang sử dụng lạm phát là mục tiêu.

+ IMF cũng khuyến nghị Việt Nam đẩy mạnh cải cách khu vực ngân hàng, tăng cường năng lực cho Công ty VAMC, và tiếp tục cải cách để đẩy mạnh thu hồi nợ và tăng cường kỷ luật thị trường.

CASE STUDY NO.984: TỪ CHAEBOL HÀN QUỐC ĐẾN NHỮNG “GIA TỘC KHỦNG” TẠI VIỆT NAM

Theo VCCI, những doanh nghiệp thành đạt nhất trong những năm qua là những doanh nghiệp tư nhân, những doanh nghiệp gia tộc chứ không phải là doanh nghiệp nhà nước. Đánh giá chung, 100 doanh nghiệp gia đình lớn nhất Việt Nam đã đóng góp khoảng 1/4 GDP của cả nước.

 

1-MÔ HÌNH CHAEBOL TẠI XỨ KIM CHI :

Hán tự của chaebol là hai chữ “tài phiệt”, được ghép từ hai bộ chữ có ý nghĩa là “giàu có” và “dòng họ”. Khái niệm này được dùng để chỉ các tập đoàn khổng lồ của Hàn Quốc, kiểm soát phần lớn bởi các thành viên của một gia tộc giàu có và quyền lực. Các chaebol Hàn Quốc thường được so sánh với mô hình keiretsu của Nhật Bản – mô hình kế tục trực tiếp của các tài phiệt Nhật (zaibatsu) thời trước năm 1945.

Sự hình thành các chaebol bắt đầu từ sau thế chiến 2. Sau khi quân Nhật rút khỏi năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc được sở hữu các tài sản của một số doanh nghiệp Nhật Bản, một vài trong số này đã phát triển thành các chaebol. Các chaebol được hình thành bao gồm nhiều công ty có mối quan hệ liên kết về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động. Nét đặc trưng của các chaebol là toàn bộ các công ty thành viên thường do một hoặc một số ít gia đình sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối.

Các chaebol nổi tiếng nhất tại Hàn Quốc phải kể đến các tập đoàn lớn như Hyundai, LG, Samsung, Lotte, SK,… Các siêu tập đoàn này bao gồm hàng loạt công ty con, xuất hiện trong đủ mọi ngành nghề. 

 Gia đình lãnh đạo tập đoàn Samsung

Hiện cổ phiếu của các chaebol Hàn Quốc chiếm khoảng 50% trong chỉ số Kospi của Hàn Quốc. Chaebol đóng vai trò quan trọng để biến Hàn Quốc từ một nền kinh tế bé nhỏ tới nhà xuất khẩu lớn thứ 5 thế giới, tuy nhiên mối quan hệ giữa chaebol với chính phủ xứ sở kim chi cũng là vấn đề đang gây tranh cãi.

2-MÔ HÌNH “GIA TỘC” TẠI XỨ RAU MUỐNG :

Câu chuyện về các chaebol – những tập đoàn được xem là “gia đình trị” ở Hàn Quốc – đã trở thành đề tài lớn được nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước nhắc đến trong định hướng phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh nhiều tập đoàn tư nhân đang hình thành, các tỷ phú đô la và giới siêu giàu tăng nhanh chóng.

Tại Hội thảo “Chuyên nghiệp hóa doanh nghiệp gia đình” diễn ra mới đây, theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực kinh tế tư nhân, thể hiện vai trò tiên phong trong việc đẩy mạnh sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đóng vai trò như một hạt nhân quan trọng của nền kinh tế. Những doanh nghiệp thành đạt nhất trong những năm qua là những doanh nghiệp tư nhân, những doanh nghiệp gia đình chứ không phải là doanh nghiệp nhà nước.

Theo đánh giá chung, 100 doanh nghiệp gia đình lớn nhất Việt Nam đã đóng góp khoảng 1/4 GDP của cả nước.

+ Tập đoàn Phú Thái: Việt Nam gần như cần có ruột thịt trong công ty

Ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Phú Thái Holdings, đồng thời là chủ tịch Hội đồng Doanh nhân và Gia đình Việt Nam từng khẳng định rằng “ở Việt Nam gần như cần có ruột thịt trong công ty, chứ góp vốn ở ngoài, dù lỗ hay lãi cũng gặp trục trặc”.

Cũng theo ông Đoàn, công ty gia đình còn “thống trị” trong khoảng 30-40 năm nữa. Do vậy, cần hỗ trợ của nhà nước, ngay như các tập đoàn lớn của Hàn Quốc như Samsung, Hyundai… đều có sự hậu thuẫn của chính phủ nước này.

Ở Tập đoàn Phú Thái, con cháu của ông Đoàn đều được ông định hướng cả chục năm trước để tiếp quản công ty. Thậm chí ông đích thân “lên lớp” để dạy cho các con cháu về kinh doanh, gia đình.

Ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Phú Thái 

Tập đoàn Phú Thái (Phú Thái Holdings) bao gồm nhiều công ty con như Phu Thai CAT (lắp ráp xe), Kowil (thời trang), GreenVet (thú y), Phú Thái Group (hàng tiêu dùng), Phú Thái H&B (sức khỏe và sắc đẹp), Phú Thái Invest (giáo dục, nhà hàng, dược phẩm). Trong đó, Tập đoàn BJC của Thái Lan đã sở hữu 64,55% cổ phần của Phú Thái Group – thành viên của Phú Thái Holdings – từ năm 2013 và thông qua đó sở hữu các công ty con của Phú Thái Group.

Hiện nay, Tập đoàn này có gần 30 đơn vị trực thuộc gồm các công ty thành viên, trung tâm phân phối và trung tâm kho vận trên toàn quốc. Ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT Phú Thái Holdings đang là cổ đông lớn nhất của Tập đoàn này tới tỷ lệ sở hữu 90%.

+ Đế chế mía đường Thành Thành Công

Gia đình ông Đặng Văn Thành, bà Huỳnh Bích Ngọc ghi dấu ấn trong 3 lĩnh vực gồm: ngân hàng, mía đường, bất động sản. Ông Đặng Văn Thành là người từng gây dựng nên Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) và cùng người vợ Huỳnh Bích Ngọc dựng nên đế chế Thành Thành Công (TTC).

Tuy nhiên đến năm 2012, gia đình ông Đặng Văn Thành để tuột mất quyền kiểm soát ngân hàng Sacombank vào nhóm nhà đầu tư mới đến từ Eximbank và SouthernBank.

Một thời gian im ắng trên thương trường sau khi rời Sacombank, năm 2014 ông Đặng Văn Thành quay trở lại với công việc kinh doanh với vai trò Chủ tịch Hội đồng chủ tịch Tập đoàn Thành Thành Công.

 Gia đình ông Đặng Văn Thành – Tập đoàn Thành Thành Công

Thành Thành Công là cái tên không mấy xa lạ trong ngành mía đường. Trước khi rút khỏi Sacombank, ông Thành là người dẫn dắt ngân hàng này phát triển trong 20 năm từ hợp tác xã tín dụng Thành Công. Trong khi đó bà Ngọc lại được ví là nữ hoàng mía đường với việc điều hành tập đoàn mía đường có tầm ảnh hưởng lớn nhất hiện này là Thành Thành Công. Thành Thành Công được ông Thành sáng lập từ 26 năm trước với xuất phát điểm là doanh nghiệp kinh doanh cồn, mật rỉ.

Hiện Thành Thành Công đã là tập hợp của hơn 20 đơn vị thành viên hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Qua các thương vụ mua bán sáp nhập, Thành Thành Công hiện nắm cổ phần lớn tại Đường Biên Hòa, đường Bourbon Tây Ninh, Đường Ninh Hòa,.. cũng như tham gia vào bất động sản, du lịch, năng lượng và đầu tư tài chính.

Một số doanh nghiệp thành viên của tập đoàn đang niêm yết, giao dịch trên sàn chứng khoán như: Sacomreal (SCR), Du lịch Thành Thành Công (VNG), Đường Biên Hòa (BHS), Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh (SBT), Công ty Cổ phần Điện Gia Lai (GEG),…

Con gái Đặng Huỳnh Ức Micủa ông Thành hiện là người kế nghiệp và giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT Thành Thành Công và thành viên HĐQT Công ty Cổ phần Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh.

+ Gia đình ông Đỗ Minh Phú: Tập đoàn Doji, Ngân hàng Tiên phong

Gia đình ông Phú vốn là gia đình có truyền thống 3 đời kinh doanh với thế hệ đầu tiên là cụ Đỗ Thế Sử. Năm 38 tuổi khi đang làm Tổng biên tập báo Sơn Tây, cụ xin nghỉ để làm kinh doanh.

Năm 73 tuổi cụ Sử thành lập công ty TNHH Phát triển xuất nhập khẩu may mặc – GAMEXCO, tiền thân của Tập đoàn Doji. Ông Đỗ Minh Phú là người đem lại thành công lớn cho sự nghiệp kinh doanh gia đình với thương vụ đình đám là gây dựng nên công thương hiệu nổi tiếng Diana cạnh tranh với thương hiệu ngoại Kotex, sau này được bán lại cho tập đoàn Unicharm với giá từ 180-200 triệu USD.

Ông  Đỗ Minh Phú – Chủ tịch Tập đoàn Doji

Hiện ông Phú và hai người con nắm giữ toàn bộ cổ phẩn Doji Group. Doji hiện có 7 công ty con và 6 công ty liên kết góp vốn và nằm trong top 3 ngành trang sức Việt Nam. Ông Phú còn là chủ tịch HĐQT Ngân hàng Tiên Phong (TPBank). Trong gia đình, các em ông là Đỗ Anh Tú, Đỗ Anh Tuấn, Đỗ Quốc Bình, Đỗ Xuân Mai, Đỗ Kim Dung đều tham gia vào công việc kinh doanh tại nhiều công ty khác nhau.

+ IPP – Đế chế hàng hiệu đình đám nhất Việt Nam

Được giới truyền thông gọi với danh xưng “Vua hàng hiệu” – ông Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch tập đoàn Liên Thái Bình Dương (Imex Pan Pacific – IPP) cùng gia đình hiện nắm giữ danh mục hàng chục thương hiệu thời trang hàng đầu như Burberry, Chanel, Versace, CK, Salvatore Ferragamo, phân phối rượu cao cấp Moet-Hennessy, Camus cho tới nhượng quyền thương mại Burger King, Donimo Pizza, Illy Café…

Bài liên quan

Bố chồng Hà Tăng trước cơ hội mua đứt Tràng Tiền Plaza – TTTM đắc địa nhất Hà Nội

Ngoài ông Johnathan Hạnh Nguyễn, các thành viên trong gia đình ông cũng góp mặt vào công việc kinh doanh như chị em gái của ông, vợ ông là bà Lê Hồng Thủy Tiên được tạp chí Forbes bình chọn là một trong những nữ doanh nhân trẻ đáng chú ý năm 2015, 4 người con trai cũng quản lý 4 công ty và được ông Hạnh Nguyễn xem là 4 cột trụ.

Gia đình ông  Johnathan Hạnh Nguyễn

Những siêu thị tên tuổi một thời như Citimart, Maximark, Miền Đông và Bình Dân đều do gia đình ông mở và điều hành từ những năm đầu thập niên 90. Citimart và Maximark do hai chị em gái của ông là bà Nguyễn Thị Ánh Hoa và Nguyễn Ánh Hồng làm chủ. Không chỉ dừng lại ở cửa hàng miễn thuế tại sân bay, ông Hạnh Nguyễn còn phát triển mạng lưới cửa hàng miễn thuế tại cửa khẩu Tịnh Biên, Mộc Bài, Lao Bảo, Lào Cai, Dinh Bà.

Sau khi tiến vào mảng dịch vụ hàng không năm 2014, thông qua các công ty của mình, ông Johnathan Hạnh Nguyễn đã dần nâng tỷ lệ sở hữu lên 43,7% cổ phần tại SASCO, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng không lớn nhất nước. Tháng 4 vừa qua, “Vua hàng hiệu” đã chính thức được bầu làm Chủ tịch HĐQT công ty này.

Và còn nhiều tập đoàn, công ty gia đình khác như gốm sứ Geleximco, Minh Long, Bitas, May Hồ Gươm, Bia Đại Việt, Kinh Đô… đã trở thành những thương hiệu mạnh, phổ biến trên thị trường Việt Nam nhiều năm qua.

CASE STUDY N0.983 : MÔ HÌNH KINH TẾ CHÂU Á LIỆU ĐÃ HẾT THỜI SAU NHIỀU THẬP KỶ TỒN TẠI ?

PS: Kẻ thất bại trong cuộc chơi này chắc chắn sẽ là những nước nghèo, sống dựa vào các hoạt động sản xuất truyền thống & mô hình gia đình trị.

30 phút lái xe sâu vào sa mạc khô cằn bên ngoài Korla, thuộc khu vực Tân Cương, Trung Quốc là nơi đặt một nhà máy dệt may thuộc sở hữu của tập đoàn Jinsheng. Bên trong khu tổ hợp trị giá 16 tỷ tệ, tương đương 2,4 tỷ USD là hàng loạt các nhà xưởng được bao quanh bởi những bãi cỏ nhân tạo. Nguyên liệu sản xuất khiến người xem cảm thấy choáng ngợp. Tuy nhiên, hầu như không có công nhân trong nhà máy.

Thi thoảng, người ta nhìn thấy một vài kỹ sư người Đức đi lang thang trong nhà máy, đảm bảo các thiết bị vận hành trơn tru với hiệu quả cao nhất. Những gì diễn ra trong nhà máy của Jinsheng chính là tương lai của ngành công nghiệp giúp hàng triệu người châu Á thoát khỏi đói nghèo.

Nhà máy của Jinsheng nằm trên khoảng diện tích lớn gấp 5 lần diện tích mặt sàn của tòa nhà Empire lừng danh. Tuy nhiên, ở đây chỉ có vài trăm công nhân làm việc mỗi ca. Pan Xueping, Chủ tịch kiêm CEO của Jinsheng, cho biết: “Dệt may là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, thay vì chuyển các nhà máy tới những khu vực có nhân công giá rẻ, những nhà máy dệt thế hệ mới có thể tự động hóa và không cần sự hiện diện của con người”.

2-Cơn ác mộng của những nước nghèo

Nhà máy ở Tân Cương đã chứng minh cho những gì Xueping nói. Tuy nhiên, những nhà máy tự động hóa có thể tàn phá những quốc gia nghèo nhất châu Á. Sản xuất quần áo giá rẻ từng là nấc thang đầu tiên trong mô hình kinh tế châu Á, vốn đã giúp Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cũng như nhiều quốc gia khác thoát khỏi đói nghèo sau Thế chiến II.

Trong nhiều thập kỷ, quá trình này hình thành nên một mô hình quen thuộc, khi các nước phát triển hơn tiến vào những ngành công nghiệp phừc tạp như điện tử, Internet, dịch vụ tài chính, các nước nghèo hơn lại thế chân họ trong ngành dệt may bằng việc cung cấp lao động giá rẻ và làm việc theo phương thức truyền thống. Hàng hóa được tạo ra bởi lao động giá rẻ có mặt ở khắp nơi trên thế giới trong khi người lao động có thêm lựa chọn mưu sinh ngoài nông nghiệp.

Lúc này, Bangladesh, Campuchia và Myanmar đang bước trên bậc thang đầu tiên. Tuy nhiên, tự động hóa đang đe dọa bước tiến của họ. Thay vì mở các nhà máy ở những nước có nhân công giá rẻ, các công ty Trung Quốc đầu tư vào tự động hóa để mở ra các nhà máy ngay tại quê nhà. Cai Fang, một nhà phân tích nhân khẩu học tại Bắc Kinh, nhấn mạnh: “Cánh cửa đang ngày càng hẹp hơn với những nước đi sau. Họ sẽ không bao giờ có những cơ hội mà Trung Quốc có được trong quá khứ bởi tự động hóa làm đảo lộn mọi thứ”.

Đáng quan ngại, sự chuyển đổi từ lao động truyền thống sang tự động hóa sẽ diễn ra rất nhanh. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính việc thay thế hàng loạt công nhân tay nghề thấp bằng robot sẽ diễn ra trong 2 năm. Cùng với sự phát triển này, 80% công nhân làm việc trong lĩnh vực dệt may ở Đông Nam Á đang phải đối mặt với nguy cơ mất việc do tự động hóa. Kết quả của nó có thể là sự bất ổn sâu sắc trong xã hội.

3-Nước đến chân chưa nhảy

Thời gian gần đây, robot thậm chí còn có thể thay thế con người trong nhiều ngành phức tạp như sản xuất ô tô hoặc động cơ máy bay phản lực. Tuy nhiên, ngành may mặc lại đòi hỏi sự khéo léo của những ngón tay con người. Hiện tại, robot chưa thay thế được công nhân trong khi các ông lớn cũng không mặn mà phát triển công nghệ tinh vi cho một ngành với lợi nhuận thấp như may mặc.

Chính điều này dẫn tới sự tự mãn trong một bộ phận ngành công nghiệp dệt. Phát biểu tại Hội chợ Thương mại ngành dệt may tại Quảng Châu, Trung Quốc hồi tháng 5, Sahil Dhamija, lãnh đạo một nhà máy chuyên sản xuất khăn và ga trải giường xuất khẩu của Ấn Độ, cho rằng: “Máy móc chưa thể thay thế con người trong việc làm ra các sản phẩm thủ công”.

Dhamija nói không sai nhưng chưa hẳn đã đúng. Tại Atlanta, Mỹ, một nhóm giáo sư kỹ thuật và tự động hóa đã thành lập công ty khởi nghiệp SoftWear Automation năm 2007 với nhiệm vụ phát minh ra những cỗ máy có thể làm những việc không tưởng. Chẳng hạn, máy móc có thể xác định độ mềm của vải hay xác định vị trí cần cắt và khâu. Sau 7 năm phát triển với khoản trợ cấp ít ỏi 1,75 triệu USD, sản phẩm đầu tiên của SoftWear Automation là Sewbot đã được thử nghiệm.

Dù khởi đầu khó khăn nhưng năm 2015, công ty này đã bán được sản phẩm đầu tiên cho khách hàng ở Mỹ. Năm ngoái, doanh thu của công ty tăng tới 1.000% và theo kế hoạch, mức tăng trưởng tương tự cũng sẽ được duy trì trong năm nay. Bước đột phá của quá trình này chính là khả năng vượt trội của robot, cho phép nó quan sát, cắt và may quần áo thông qua những thao tác phức tạp.

Hiện tại, Sewbot có thể sản xuất được khăn, đệm và gối, vốn đòi hỏi nhiều hơn 10 công đoạn để tạo ra thành phẩm. Công ty đang tiếp tục phát triển những cỗ máy có thể tạo ra áo phông trước khi sản xuất những sản phẩm phức tạp hơn như quần jean và áo sơ mi. Theo đại diện của công ty, mục tiêu cuối cùng là tự động hóa từ khâu nguyên liệu đầu vào tới thành phẩm đầu ra.

4-Cuộc chơi không công bằng

Khi tự động hóa gia tăng, không chỉ châu Á mà cả thế giới đều sẽ thấy quỹ đạo công nghiệp bị ảnh hưởng. Khi chi phí lao động không còn là yếu tố chính của quy trình sản xuất, chẳng có lý do gì mà người ta phải chuyển công ty tới các nước đang hoặc chậm phát triển. Quần áo, giày dép có thể lại được sản xuất ở Bắc Mỹ hay châu Âu, những nơi mà chi phí lao động quá cao từng khiến quá trình này trở nên bất khả thi.

Trên thực tế, quá trình này đã bắt đầu diễn ra. Tập đoàn sản xuất đồ thể thao Adidas của Đức đã chuyển một số mẫu giày về sản xuất tại nhà máy tự động hóa tốc độ cao ở quê nhà Ansbach, dự kiến đi vào hoạt động trong năm nay. Trong tháng 5, Tập đoàn công nghệ Ruyi Sơn Đông của Trung Quốc, công ty sở hữu các thương hiệu cao cấp như Sandro và Maje, đã tuyên bố đầu tư nhà máy trị giá 410 triệu USD ở Thành phố Forrest, Arkansas, Mỹ.

Frederic Neumann, chuyên gia cấp cao của HSBC Holdings tại Hồng Kông, nhận định: “Tự động hóa, về cơ bản, làm cân bằng lại cuộc chơi. Cả thế giới sẽ bị kéo vào một trò chơi chiến lược khổng lồ, khi mỗi nước đều tìm cách lôi kéo các ngành công nghiệp về mình”.

CASE STUDY N0.982 :Mô hình đầu tư Ponzi và những vụ vỡ nợ điển hình

  1. Định nghĩa mô hình Ponzi

Mô hình Ponzi là trò vay tiền của người này để trả nợ người khác. Kẻ đi vay đưa ra cam kết trả lợi tức cao cho người cho vay và quảng cáo với họ về những tấm gương đã từng nhận được lợi tức cao trước đây để hấp dẫn người cho vay. Người cho vay bị hấp dẫn bởi lợi tức cao lại thậm chí giới thiệu những người cho vay mới hơn (vai trò quảng cáo). Bằng hình thức này, kẻ đi vay càng ngày càng vay được những khoản tiền lớn hơn từ nhiều người cho vay mới hơn (để duy trì và đánh bóng hình ảnh kinh doanh thành công).

Người chủ của các mô hình Ponzi thường lôi kéo các nhà đầu tư mới bằng cách cung cấp lợi nhuận cao hơn so với các khoản đầu tư khác, với lợi nhuận ngắn hạn hoặc là cao bất thường hoặc kéo dài một cách bất thường.

Mô hình Ponzi đôi khi bắt đầu như một doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp, cho đến khi doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận kỳ vọng. Doanh nghiệp trở thành một mô hình Ponzi nếu nó sau đó tiếp tục các hành vi gian lận. Dù tình hình ban đầu như thế nào, việc phải trả lợi nhuận cao đòi hỏi một dòng chảy tiền ngày càng tăng từ các nhà đầu tư mới để duy trì mô hình này.

Ý tưởng này xuất hiện trong các tiểu thuyết Martin Chuzzlewit năm 1844 và Little Dorrit năm 1857 của Charles Dickens, nhưng Ponzi thực hiện nó trong đời thực và lấy được nhiều tiền đến nỗi mô hình này trở nên nổi tiếng toàn nước Mỹ.

  1. Vụ lừa đảo của Charles Ponzi

Charles Ponzi không phải là người đầu tiên “thiết kế” ra kiểu lừa đảo Ponzi, nhưng kiểu lừa này được đặt theo tên ông ta vì cú lừa mà ông ta thực hiện đã khiến cả nước Mỹ phải chấn động vào thời đó.

Charles Ponzi sinh năm 1882 tại Ý. Dù được nhận vào học tại Đại học Rome, Ponzi xem đó như là một kỳ nghỉ dài để rồi khi hết tiền, ông buộc phải bỏ học và lên tàu tới kiếm sống ở Boston, Massachusetts (Mỹ). Toàn bộ số tiền mang theo cũng bị ông nướng sạch vào các cuộc đỏ đen và chỉ còn vỏn vẹn $2.50 khi tàu cập bến.

Nguồn elistmania.com

.

Tại xứ sở mới, Ponzi dành ra vài năm làm nhiều việc để kiếm sống. Thậm chí, có lúc ông rửa bát cho một nhà hàng và ngủ ngay trên sàn nhà. Nhưng nhờ làm việc chăm chỉ, Ponzi được thăng cấp lên vị trí bồi bàn để rồi bị sa thải vì tội lừa gạt khách hàng và trộm cắp.

Thất nghiệp, Ponzi tìm tới Montreal, Canada và trở thành người thu ngân trong chi nhánh mới mở của ngân hàng Banco Zarossi. Để thu hút khách, ông chủ Zarossi trả khoản lợi tức gấp đôi các đối thủ cạnh tranh cho bất cứ ai chịu gửi tiền vào ngân hàng của ông ta. Dù ăn nên làm ra, kì thực ngân hàng đang gặp rắc rối vì các khoản nợ xấu và hoàn toàn không có bất kì một khoản đầu tư nào. Để duy trì hoạt động, Zarossi thường lấy tiền của người sau trả cho người trước. Zarossi trốn sang Mexico trước khi ngân hàng sụp đổ.

Khi thành công đến

Sau một thời gian lang bạt và nhiều lần bị bắt vào tụ vì tội lừa đảo, Ponzi trở về Boston, yêu và cưới một cô gái trẻ có tên Rose Gnecco. Muốn cho vợ mình sớm được hưởng đời nhung lụa, Ponzi lao vào kiếm tiền. Ông từng đưa ra ý tưởng mà sau này người ta hình thành cuốn niên giám Yellow Pages để bán quảng cáo cho khách hàng, nhưng thất bại.

Nguồn: ponzisscheme.com

Một hôm Ponzi nhận được lá thư từ một công ty ở Tây Ban Nha đề nghị trao đổi về ý tưởng kinh doanh của anh. Trong thư có một tấm phiếu IRC. IRC có thể sử dụng như một con tem và đã được nhiều nước chấp nhận. Vì giá tem mỗi nơi một khác, Ponzi phát hiện ra cơ hội làm giàu béo bở: Mua IRC tại Ý và các nước ngoài Mỹ, nơi giá rất rẻ và bán nó với giá cao tại Mỹ. Ponzi nhẩm tính khoản lợi nhuận thu được, sau khi trừ chi phí, có thể vượt quá 400% và việc này hoàn toàn hợp pháp.

Có kế hoạch, Ponzi bắt đầu mở công ty mang tên “Securities Exchange Company” ở Boston và tìm sự giúp đỡ tài chính. Ông kêu gọi bạn bè cho mượn tiền và hứa trả họ lãi suất lên tới 50% trong vòng 45 ngày. Một vài người mạnh dạn bỏ tiền đầu tư và được trả lãi như đã cam kết. Tiếng lành đồn xa, các khoản đầu tư thi nhau chảy về. Ponzi thuê mướn hàng loạt nhân viên và hứa sẽ trả khoản lợi tức khổng lồ cho các nhà đầu tư. Tới tháng 2/1920, Ponzi đã có trong tay 5.000 USD, một khoản tiền khổng lồ khi đó. Đến tháng 3, ông đã có 30.000 USD. Tiền làm Ponzi lóa mắt. Ông thuê mướn hàng loạt nhân công và gom tiền tại toàn bộ các khu vực New England và New Jersey. Nhà đầu tư được trả lãi lớn đã mạnh dạn động viên bạn bè, người thân tham gia.

Nguồn: fritzbreland.wordpress.com

.

Tới tháng 5, Ponzi đã có 420.000 USD. Người người bán nhà, đập lợn tiết kiệm, mang tới cho Ponzi. Phần lớn khi nhận được tiền lãi lại tái đầu tư cho Ponzi với hy vọng sẽ được hưởng lợi tức lên tới 100%. Vào tháng 7, Ponzi đã có gần 8 triệu USD.

Xuống dốc không phanh

Thành công trong việc huy động vốn nhưng Ponzi lại chẳng thể nào kiếm đủ IRC để đầu tư và sinh lãi. Dù vậy, ông sống rất xa hoa, mua cả lâu đài, xe hạng sang, đầu tư vào các ngân hàng, doanh nghiệp… Tới tháng 8 cùng năm, người ta phát hiện Ponzi đang trả lãi cho nhà đầu tư cũ bằng tiền của nhà đầu tư mới. Hành động này vốn được gọi là “cướp người này trả cho người kia”, giờ đã có cái tên chính thức là “kiểu lừa Ponzi”. Cho tới khi đổ bể, bằng cách lừa đảo này Ponzi đã khiến các nhà đầu tư mất trắng 20 triệu USD, đồng thời khiến 6 ngân hàng phá sản.

Năm 1920, Ponzi bị truy tố vì tội lừa đảo và phải thụ án một thời gian trong các nhà tù liên bang trước khi bị trục xuất về Italy vào năm 1934. Ông ta chết trong cảnh trắng tay tại Rio de Janeiro (Brazil) vào năm 1949 và được chôn trong một nghĩa trang của người nghèo.

.

III. Các vụ đổ bể đình đám khác

  1. Allen Stanford (Mỹ)

Stanford từng là một trong những tỷ phú tài chính nổi tiếng của Mỹ, có lối sống xa hoa, sở hữu nhiều biệt thự, du thuyền, và thậm chí cả một sân bóng cricket ở quần đảo Antigua. Ở thời kỳ đỉnh cao cuối những năm 80, giá trị tài sản của Stanford lên tới 2,2 tỷ USD. Năm 2009, ông từng được Tạp chí Ford xếp hạng giàu thứ 605 thế giới. Làm từ thiện hào phóng, Stanford thậm chí còn được phong tước hiệp sỹ tại Antigua.

Tuy nhiên, tất cả đã đặt dấu chấm hết cho nhà tài phiệt có thế lực này khi ông bị bắt vào năm 2009. Theo đó, các nhà chức trách đã tiến hành bắt giữ Stanford sau khi xác định đối tượng này đã lợi dụng những người không giàu có, bao gồm giáo viên nghỉ hưu, cựu chiến binh, công nhân, thậm chí theo như lời của một nạn nhân, Stanford “đã ăn cắp cả cuộc sống” của họ để làm giàu cho bản thân.

.

Hình thức lừa đảo của Allen Stanford thực chất là kinh doanh trá hình theo kiểu “mô hình Ponzi”- hình thức trong đó tiền gửi của người gửi sau sẽ được dùng để trả lãi cho những người gửi trước, hình thành một mạng lưới của những người muốn hưởng lãi suất cao nhưng thực chất lại không có sự đâu tư tạo giá trị thực sự nào.

Tỷ phú nước Mỹ đã dựng lên một kế hoạch đầu tư “ma” trị giá nhiều tỷ USD với nhiều “lời hứa giả mạo và các cơ sở dữ liệu ngụy tạo”. Ngân hàng Quốc tế Stanford International (SIB) thuộc quyền sở hữu của Stanford và được điều hành bởi một vòng tròn khép kín bao gồm gia đình và bạn bè Stanford để bán ra các chứng chỉ ký thác đầu tư trị giá hơn 7 tỷ USD với lời hứa trả lãi suất cao.

.

Nhờ lãi suất cao (11% -16%), cao gấp đôi so với lãi suất của các ngân hàng thương mại cùng với các chiến dịch quảng cáo của mình, chỉ riêng trong năm 2005, SIB đã “nhử” được 35.000 khách hàng với tổng số vốn góp 3,8 tỷ USD và đến cuối năm 2007, con số đón góp của các nhà đầu tư là 6,7 tỷ USD. Tuy nhiên, thay vì mang tiền đi đầu tư, Stanford lại tiêu xài hết vào những trò ăn chơi, giải trí cá nhân.

Tính đến thời điểm vụ lừa đảo này bị phát giác, công ty của Standford đã thu hút được hơn 50.000 khách hàng ở 131 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó tập trung chủ yếu ở Mỹ, châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê.

.

Sau nhiều lần bị trì hoãn, đến giữa năm 2012, phiên tòa xét xử Allen Standford mới kết thúc với mức án 110 năm tù dành cho kẻ lừa đảo. Đây là vụ lừa đảo mà Ủy ban Chứng khoán và hối đoái Mỹ – SEC cho rằng có tính chất nghiêm trọng, gây chấn động tới giới tài chính và đầu tư trên phạm vi toàn cầu.

.

  1. William Miller (Anh) – “cha đẻ” của Ponzi

.

.

Nhiều thập kỷ trước khi mô hình lừa đảo đa cấp được gán cho cái tên Ponzi, kiểu lừa đảo này đã được một thủ thư có tên William Miller ởBrooklyn khởi xướng. Nhiều người đã vét sạch những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để góp vào công ty đầu tư mang tên Franklin Syndicate do Miller lập ra vào năm 1899, với hy vọng sẽ được trả lãi suất 10% mỗi tuần. Miller được đặt biệt danh “520%” – chỉ mức lãi suất cả năm mà ông ta hứa với các nhà đầu tư.

Siêu lừa này tuyên bố ông ta có một bí quyết để nắm bắt cách kinh doanh của các công ty ăn nên làm ra. Tuy nhiên, vụ việc rồi cũng đến lúc vỡ lở. Miller lừa của các nhà đầu tư 1 triệu USD, tương đương với 25 triệu USD ngày nay. Ông ta bị kết án 10 năm, nhưng chỉ phải ngồi 5 năm trong nhà đá. Sau khi được thả tự do, Miller đến Long Island kiếm sống bằng cách mở một cửa hiệu tạp hóa.

.

  1. Tom Petters (Mỹ)

Vào năm 2010, một doanh nhân ở bang Minnesota, Mỹ, có tên Tom Petters bị kết án 50 năm tù giam sau khi vụ lừa đảo Ponzi 3,65 tỷ USD do ông ta “đạo diễn” bị lôi ra ánh sáng. Đây được xem là vụ Ponzi lớn thứ ba trong lịch sử sau vụ Bernie Madoff và vụ Alan Stanford.

Với tư cách là CEO kiêm Chủ tịch của công ty Petters Group Worldwide, Petters thuyết phục các nhà đầu tư góp tiến để mua hàng điện tử để bán lại cho các hãng bán lẻ lớn Costco và Sam’s Club. Nhưng trên thực tế, Petters dùng tiền này cho các hoạt động kinh doanh khác của ông ta và trả lãi cho các nhà đầu tư khác. Lĩnh án khi đã 52 tuổi, có lẽ Petters đến chết vẫn chưa ra khỏi nhà đá.
.
4. Norman Hsu (Mỹ)

.

Nguyên là một nhà huy động tài chính cho đảng Dân chủ của Mỹ, Norman Hsu bị cáo buộc vận hành một chương trình lừa đảo kiểu Ponzi với quy mô 60 triệu USD vào năm 2009. Với phương thức không mới, Hsu “thịt” các nhà đầu tư bằng cách mời chào họ góp vốn, hứa trả lãi cao, dùng tiền của nhà đầu tư trả cho người góp vốn trước.

Sau khi Hsu bị tố giác, tất cả những chính trị gia từng được ông ta huy động tài chính như Hillary Clinton, Eliot Spitzer, Andrew Cuomo, Barack Obama và Al Franken để chuyển số tiền đã nhận từ nhân vật này vào quỹ từ thiện. Mức án mà tòa dành cho Hsu là 24 năm “bóc lịch”.

5. Lou Pearlman (Mỹ)

Sau thất bại nghề nghiệp trong ngành hàng không, Lou Pearlman chuyển sang lĩnh vực giải trí và trở thành một ông trùm âm nhạc sừng sỏ, có công thành lập những ban nhạc nam lớn của thập niên 1990 như Backstreet Boys, NSYNC, O-Town… Tuy nhiên, Pearlman chỉ trở nên nổi tiếng như cồn sau khi chương trình lừa đảo Ponzi quy mô 300 triệu USD của ông ta bị phát giác vào năm 2006.

Để lừa các nhà đầu tư, Pearlman đã lập ra một công ty hàng không “ma”. Pearlman đã tìm cách bỏ trốn, nhưng bị bắt khi đang trên đường tẩu thoát sang Indonesia. Năm 2008, ông ta bị đem ra xét xử và kết án 25 năm tù giam.

6. Những vụ lừa đảo Ponzi ở Albania

Vào năm 1997, một vụ Ponzi khổng lồ ở Albiania đổ bể, đẩy nước này rơi vào cảnh hỗn loạn tài chính, đồng thời châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn, lật đổ chính phủ và khiến hơn 2.000 người dân thiệt mạng. Mấy năm trước đó, Albania bước vào thời kỳ quá độ sang cơ chế thị trường tự do sau nhiều năm nằm dưới sự thống trị của chế độ độc tài Enver Hoxha. Hệ thống tài chính còn sơ khai ở thời điểm quá độ của Albania nằm dưới sự thống trị của một loạt những kế hoạch Ponzi hứa trả nhà đầu tư mức lãi lớn.

Hơn 2/3 người dân Albania đã sập bẫy chiêu lừa này vì lóa mắt trước cơ hội giàu lên nhanh chóng. Thậm chí, Chính phủ Albania còn công khai phê chuẩn hoạt động của một số công ty lừa đảo này. Đến đầu năm 1997, người dân Albania bị mất tổng cộng hơn 1,2 tỷ USD. Mất tiền, người dân đổ ra đường để phản đối Chính phủ, cho rằng nhà chức trách hưởng lợi từ những kẻ lừa đảo. Về sau, Liên hiệp quốc phải can thiệp để lập lại trật tự ở nước này.

7. Gerald Payne (Mỹ)

Vụ lừa đảo Ponzi của Gerald Payne lấy mất của các nhà đầu tư gần 500 triệu USD, nhưng gây ấn tượng hơn cả là cách rút tiền của siêu lừa này. Vào giữa thập niên 1990, Payne dùng nhân danh nhà thờ để thuyết phục gần 18.000 người góp vốn cho ông ta, hứa sẽ trả lãi lớn thông qua việc đầu tư vào vàng, bạc và trái phiếu nước ngoài.

Trên thực tế, Payne đã dùng séc để rút tiền dưới mức giới hạn thông báo 10.000 USD nhằm không bị phát hiện. Tuy nhiên, do Payne rút tiền bằng séc rất nhiều lần nên đã bị Thuế vụ Mỹ chú ý. Khi ra tòa, Payne cho biết, số tiền đã bị dùng làm quà biếu chứ không phải được đầu tư. Payne lĩnh án 27 năm, còn vợ ông ta là Betty ngồi tù 12 năm rưỡi.

8. David Dominelli (Mỹ)

Năm 1979, Domilelli mở một công ty ở California, Mỹ và hứa trả cho những nhà đầu tư góp vốn sớm mức lãi 40-50%. Đây là một vụ lừa đảo Ponzi kinh điển, trong đó Dominellini dùng tiền của nhà đầu tư đến sau trả cho nhà đầu tư đến trước, huy động được tới 80 triệu USD. Đến năm 1983, gần 1.500 nhà đầu tư đã mắc bẫy của siêu lừa này, khiến ông ta dần dần không thể đáp ứng được khả năng rút vốn nữa. Vào năm 1985, Dominelli bị kết án 20 năm tù giam và được tha bổng sau khi thụ án 10 năm. Ông ta qua đời vào năm 2009 tạiChicago.

9. Bernie Madoff (Mỹ)

Bernard Lawrence Madoff (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1938) là một doanh nhân người Mỹ. Madoff bắt đầu sự nghiệp tài chính ở tuổi 22 với 5.000 USD trong tay, khoản tiền ông tự kiếm được nhờ làm các công việc trong kỳ nghỉ hè, chẳng hạn như lắp đặt hệ thống tưới vườn ở New York. Đến năm 1960, Ông sáng lập hãng Bernard L. Madoff Investment Securities LLC ở phố Wall và là chủ tịch hãng này đến ngày 11 tháng 12 năm 2008. Ông nguyên là chủ tịch của sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ. Bernie Madoff được xem là biểu tượng của tội phạm tài chính hiện đại. Năm 2008, ông bị cáo buộc vận hành một vụ lừa đảo Ponzi trị giá 50 tỷ USD, lớn nhất trong lịch sử. Với uy tín ở Phố Wall, các quỹ đầu tư của công ty Madoff hấp dẫn các nhà đầu tư bởi lời hứa lợi nhuận cao và chi phí thấp. Vì thế hàng chục ngàn nhà đầu tư (cá nhân và doanh nghiệp) đã đầu tư vào quỹ của Madoff thông qua các đối tác của công ty này và ký gửi cho ông ta hàng chục tỷ USD. Đồng thời các nhà đầu tư đó đã được Madoff trả lãi suất rất cao, luôn ở mức 2 con số (10,5% lãi mỗi năm) mà không hề biết rằng số tiền lãi đó chỉ đơn giản là lấy tiền của nhà đầu tư sau trả cho nhà đầu trướctheo như mô hình lừa đảo kiểu Ponzi.

Hàng loạt ngân hàng, tổ chức tài chính trên thế giới sau đó đã phải thừa nhận họ đã sập bẫy của Madoff. Danh sách những nạn nhân của Madoff ngày một dài hơn và trong đó có rất nhiều tên tuổi các ngân hàng hàng đầu trên thế giới như Santander của Tây Ban Nha, ngân hàng Anh HSBC, ngân hàng Hoàng gia Scotland, ngân hàng BNP của Pháp, ngân hàng Nomura (Nhật Bản)… Không chỉ có các thể chế tài chính mà những tổ chức nhân đạo cũng bị ảnh hưởng. Nhiều tổ chức nhân đạo đã phải đóng cửa và sa thải nhân viên sau khi bị mất toàn bộ tiền vào quỹ của Madoff.

“Nạn nhân” của Madoff bao gồm từ những nhân vật nổi tiếng như Elie Wiesel, người đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1986, đạo diễn Steven Spielberg (Mỹ) đến các triệu phú, các công ty tư vấn đầu tư và quỹ phòng hộ (hedge)… Thậm chí siêu lừa Allen Stanford cũng trở thành 1 nạn nhân của Madoff với số tiền đầu tư lên đến 400.000 USD. Có thể nói cú lừa thế kỷ này của Madoff chẳng khác nào thảm hoạ sóng thần quét sạch các tổ chức tài chính trên thế giới và đây được coi là vụ “vỡ hụi” khủng khiếp nhất trong lịch sử thế giới với tổng thiệt hại lên đến 64.8 tỷ USD.

Kết thúc vụ án, Madoff phải ra vành móng ngựa vào tháng 12 năm 2008 chịu mức án phạt 150 năm tù. Tuy nhiên, mức phạt này chưa phải là kết cục làm hài lòng những “nạn nhân” của siêu lừa Bernard Madoff. Bởi với họ, những người đã mất toàn bộ tài sản, gia đình tan nát, thậm chí có người đã tự tử vì tay trắng thì quãng đời còn lại trong lao tù của Madoff vẫn là sự trừng phạt “nhẹ nhàng”.

  1. Scott Rothstein và đường dây bán hàng đa cấp

Scott Rothstein, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1962 là một luật sư người Mỹ, đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành công ty luật Rothstein Rosenfeldt Adler. Năm 2005, Rothstein bỗng phất lên “như diều gặp gió” nhờ kinh doanh đa cấp và trở thành cái tên nổi tiếng không chỉ trong giới luật sư, mà còn trong giới tài chính Mỹ.

Ở 47 tuổi, Scott Rothstein đã trở thành triệu phú Mỹ và nắm trong tay khối tay sản lên đến hàng tỷ USD. Không những thế, Scott Rothstein còn có một cuộc sống vô cùng xa hoa với hàng hiệu, xe xịn và gái đẹp.

Cũng theo mô hình Ponzi, bắt đầu từ năm 2005, lợi dụng uy tín và sự thành công của công ty luật, Rothstein đã mời chào để bán cổ phần các khu đất giả mạo cho nhiều nhà đầu tư với lí lẽ rằng khách hàng sẽ được giảm giá lớn nếu tiền tới sớm và chồng cả cục.

Theo John Gillies, trợ lý đặc biệt phụ trách văn phòng Miami của FBI, Scott Rothstein dường như có một sức hút kỳ lạ từ một luật sư uy tín để tất cả các nhà đầu tư có thể tin rằng số tiền đầu tư của họ sẽ tạo ra được khoản lợi nhuận khổng lồ. Số lợi nhuận Rothstein thu về từ việc làm ăn phi pháp này lên tới 1,2 tỉ USD.

Cũng kể từ khi bắt đầu sự nghiệp bán hàng đa cấp, Rothstein cũng bắt đầu hình thành thói quen sưu tập xế khủng, đồng hồ hàng hiệu và mải mê lao vào những cuộc tình ngắn ngủi, bỏ bê vợ con, gia đình.

Sự việc được phanh phui vào đầu tháng 11 năm 2009, Scott Rothstein bị kêt tội lừa đảo và chiếm đoạt tài sản lên tớ 1,2 tỷ USD. Tất cả những tài sản giá trị của Rothstein được đem ra bán đấu giá để đền bù một phần cho người bị hại.

Với hành vi lừa đảo của mình, ngày 9 tháng 6 năm 2010, Scott Rothstein đã phải lãnh mức án 50 năm tù.

.

  1. Ding Ning (Trung Quốc)

21 người tham gia vào hoạt động gây quỹ lừa đảo trực tuyến để trục lợi 50 tỉ nhân dân tệ (gần 7,6 tỉ USD) từ hơn 900.000 nhà đầu tư.

Từ trái qua: Ding Ning, Zhang Min và Yong Lei. Ảnh: SCMP

.Đây được xem là vụ lừa đảo qua mạng lớn nhất từ trước đến giờ ở Trung Quốc tính về số tiền thiệt chiếm đoạt và số lượng nhà đầu tư tham gia.

Các nghi phạm làm việc cho Công ty Ezubao – hoạt động bằng phương pháp chia sẻ mạng ngang hàng (P2P). Thực chất đây là cách thức lừa đảo kiểu Ponzi (lừa đảo tín dụng đa cấp) vì 95% dự án tài chính mà họ đưa lên mạng internet để thu hút nguồn vốn đều không tồn tại.

Tổng cộng hơn 900.000 nhà đầu tư Trung Quốc đã sập bẫy và số tiền những kẻ lừa đảo bỏ túi tròm trèm 7,6 tỉ USD.

Một trong số các nghi phạm bị bắt là Ding Ning (34 tuổi). Tên này khởi xướng Ezubao – được xem là dự án kinh doanh tài chính trực tuyến lớn nhất Trung Quốc – từ tháng 7-2014 tại tỉnh An Huy và cũng là Chủ tịch điều hành Công ty Yucheng. Họ Ding cùng đồng bọn đưa ra lợi nhuận hàng năm ở mức dao động từ 9-14,6% để làm mờ mắt các nhà đầu tư.

Nhưng trên thực tế, hầu hết dự án liệt kê trên trang web của bọn chúng đều là dự án “ma” và những kẻ lừa đảo sử dụng nguồn vốn từ các nhà đầu tư mới để trả nợ cũ. Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (Hồng Kông) cho biết Ding dùng tiền lừa đảo để phục vụ cuộc sống ăn chơi xa hoa của bản thân.

Vụ lừa đảo quy mô lớn nói trên đặt ra nguy cơ đối với ngành công nghiệp quản lý tài sản tăng trưởng nhanh của Trung Quốc. Nhiều sản phẩm được bán thông qua các kênh với quy định lỏng lẻo, như nền tảng đầu tư tài chính trực tuyến và sàn giao dịch được tư nhân điều hành.

Tầng lớp trung lưu ngày càng tăng ở Trung Quốc ngày càng bị thu hút vào các dự án đầu tư trực tuyến để nhanh chóng trở nên giàu có. Ngành công nghiệp quản lý tài sản ở nước này trị giá ước tính 2,6 ngàn tỉ USD.

  1. Mạng ảo bán hàng MB24 (Việt Nam)

Ba sếp tại Công ty MB24 bị cáo buộc đã chiếm đoạt tiền

.

Công ty cổ phần Đào tạo và Mua bán trực tuyến (MB24) thông qua trang web muaban24.vn thì một số trang web khác cũng có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc bán các gian hàng ảo trên trang web muaban24.vn theo hình thức gần giống như dạng bán hàng đa cấp.

Các đối tượng cầm đầu đã chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng của hàng trăm nghìn người tham gia.

Cơ quan công tố cáo buộc, với chiêu khi hội viên giới thiệu nhiều người tham gia sẽ được tích điểm, nâng lên cấp độ VIP, được làm phó giám đốc, MB24 khiến hàng trăm nghìn người tưởng các gian hàng ảo là thật nên đã nộp tiền và rủ bạn bè, người thân tham gia để kiếm hoa hồng và chia nhau lợi nhuận. Từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2012, MB24 đã bán hơn 120.000 gian hàng ảo thu hơn 630 tỷ đồng.

CASE STUDY NO.981 : Đại công ty FLC, dòng tiền ảo và sự minh bạch

http://interactive.tinnhanhchungkhoan.vn/2017/thang-6/cuoi-tuan-2.html

Ông Trịnh Văn Quyết Chủ tịch HĐQT CTCP Tập đoàn FLC
-5,267 tỷ đồng
Chi tiết
Cổ phiếu FLC: từ 7,230 đ 7,020 đ
Tương ứng giảm: -2,9 %
Số cổ phiếu nắm giữ: 114.187.150

Cổ phiếu ROS: từ 123.500 đ 105.400 đ
Tương ứng giảm: -14,66 %
Số cổ phiếu nắm giữ: 289.558.755

Tổng tài sản: 31.391 tỷ đồng

Bà Lê Thị Ngọc Diệp Vợ của ông Trịnh Văn Quyết
-366 tỷ đồng
Chi tiết
Cổ phiếu ROS: từ 123.500 đ 105.400 đ
Tương ứng giảm: -14,66 %
Số cổ phiếu nắm giữ: 20.200.000

Tổng tài sản: 2.129 tỷ đồng

Cổ phiếu của Công ty Cổ phần (CTCP) Xây dựng FLC Faros (HOSE: ROS) hôm nay giao dịch mở cửa ngay vài phút đầu sụt giá hết biên độ là giảm -6,98%. Nếu ở thị trường khác có lẽ mã ROS này giảm đến 40% là chuyện bình thường, hoặc nếu ở Thượng Hải là đóng cửa phá sản rồi. Hãy nhớ rằng, đối với đại gia FLC này như tôi nói là sẽ không có bất cứ một xu lẻ nào của những người Việt định cư ở Mỹ mua sản phẩm của tay mơ Trịnh Văn Quyết này. Dù họ có đẩy giá chứng khoán tăng bằng cách ngăn chặn giá rơi chốt hai đầu theo trò đầu cơ bắt chước các “Hedge Fund” của Mỹ là lập ra hai công ty như CTCP Tập Đoàn FLC (HOSE: FLC), và CTCP Xây dựng FLC Faros.

Đó là FLC đầu tư đóng chốt hai đầu là khi mã ROS này giảm thì mã FLC kia tăng để hạn chế các khoản lỗ tối đa và chiêu dụ người yếu tay nghề, mà chơi trò lừa đảo này cao thâm hơn cả “Hedge Fund”, nó chỉ là trò trẻ con thôi, chả qua được mắt ai cả. vì các “Hedge Fund”, họ đầu tư theo lời ăn lỗ chịu là bằng bộ não và dòng tiền lớn chứ không đầu tư bằng dòng tiền ảo như FLC này.

Công ty FLC này của Trịnh Văn Quyết đi lên thực tế là không cần vốn liếng mà là lấy đất chùa, đất của người dân, của quốc gia với các dự án bỏ 1 đồng lời 100 đồng, hay cả 1000 đồng là lấy đất của người dân là tài sản quốc gia làm lời cho một nhóm người nào đó rất bí ẩn, kể cả phá rừng phòng hộ xây biệt thự nghỉ dưỡng,…

Đó là họ cần phải có sự lựa chọn khó khăn là cần minh bạch thị trường

Việc Tập đoàn FLC do ông Trịnh Văn Quyết làm Chủ tịch HĐQT vừa có quyết định thành lập Công ty TNHH Hàng không Tre Việt để tiến tới lấn sân sang lĩnh vực hàng không thì đúng là chuyện hài của thế kỷ, vì đầu tư vào hàng không thường là rất tốn kém về vốn tự có và thường là phải do đối tác cấp máy bay như Boeing Co (NYSE: BA), hay Airbus SE (EPA: AIR) cùng chính phủ quốc gia đó bão lãnh, còn thuê may bay thương mại thì rất khó ai đảm bảo cả. Vì đầu tư vào hàng không cần vốn hóa lớn, minh bạch và chi phí bảo hiểm lớn,.. đó là vốn liếng ban đầu của công ty này có mười mấy tỷ VND và phải đổi tên nhiều lần, và chỉ nổi lên gần đây khi giá cổ phiếu thổi lên hơn 1000% chỉ có thời gian rất ngắn vì đầu tư vào các dự án đất rất mờ ảo là “đất vàng”, đất của quốc gia, thậm chí là đất của trụ sở Thành ủy, HĐND, UBND TP Hạ Long mà Tập đoàn FLC xin chủ trương xây dựng một tổ hợp tháp đôi 45-50 tầng tại vị trí đất vàng mà không muốn bỏ tiền ra mua mà đặt điều kiện xây trước chia tiền sau, đó là chỉ có ai có thế lực rất lớn mới liều lĩnh chống lưng cho FLC này làm chuyện đó.

Đối với hồ sơ mà tỷ phú giấy Trịnh Văn Quyết đã thành công khi chiêu dụ được khối nhà đầu tư ở VN mất tiền. Đó là Trịnh Văn Quyết thông qua hai công ty CTCP Xây dựng FLC Faros (HOSE: ROS), và CTCP Tập Đoàn FLC (HOSE: FLC) là họ tắt theo kinh nghiệm đầu tư (đầu cơ) của các ‘Hedge Fund” Mỹ. Hay còn gọi là quỹ đầu tư đối trọng. Đó là họ đầu tư đóng chốt hai đầu là xưa kia mã cổ phiếu FLC, và ROS có hiện tượng tăng giảm bất thường là bất kể khi nào mã ROS giảm thì mã FLC kia tăng, và ngược lại mã FLC kia giảm thì mã ROS tăng.

Trong 2 phiên giao dịch liền vừa qua cổ phiếu của Trịnh Văn Quyết bị đánh sập là vì 2 mã ROS, FLC này bị lộ điểm yếu là cả hai mã này sụt giá cùng lúc là hết còn được đóng chốt hai đầu. Đó là mã ROS này giảm 13,95%, mã FLC giảm 3,34%. Thực tế mã ROS này kể từ khi niêm yết chứng khoán thì giá của nó tăng được 743,2%, tức là vỏn vẹn chỉ có trên dưới 12 tháng thôi. Nếu một nhà đầu tư giàu kinh nghiệm thì họ chả bao giờ đầu tư vào mã ROS này cả, vì hiệu suất giá quá khứ của nó tăng quá mạnh.

Chuyện khó tin nữa là đa số các tín đồ đầu tư chứng khoán ở VN theo trường phái đầu tư ngắn hạn là ưa phân tích kỹ thuật, là họ hay tập trung phân tích kỹ thuật vào cổ phiếu mã ROS này trước đây mà tôi kết luật là nó không bao giờ đúng trong phân tích kỹ thuật của mã ROS này cả. Cho nên họ thua lỗ là chuyện không thể trách ai mà là Trịnh Văn Quyết quá cao tay nên đừng dại dội mà chạy theo nó là mất vốn oan.

Tôi thì hay mỉa mai là đầu tư chứng khoán đâu phải nhất thiết cứ phải lao theo cái mã ROS kia làm gì để bị mất vốn oan. Cái trò trẻ con này đúng là nó vẫn có giá trị ở VN, vì cái thị trường cổ phiếu này chỉ cân vài nhóm lợi ích móc nối với các các nhà cái và kết thân với những kẻ tay chân nằm vùng là người nhà của UBCK Nhà nước là tha hồ thao túng giá cả.

Hãy nhớ rằng, cái TTCK VN đừng tưởng khôn hơn mấy tay đầu tư Mỹ, đó là mọi giao dịch hay thiết kế và phân tích kỹ thuật về chứng khoán hay các vấn đề liên quan đến giao dịch gọi là tài chính, chứng khoán, phái sinh hay các tài sản cơ bản nó đều qua tay thiết kế của những cáo già tài chính Wall Street cả.

Thậm chí là cả Chỉ số MSCI nó là viết tắt của Morgan Stanley Capital International (Ngân hàng đầu tư Morgan Stanley tạo ra), đây là các chỉ số thị trường toàn cầu đầu tiên, được tạo ra vào năm 1968. Ta xem Chỉ số MSCI nó như là chỉ số được sử dụng như là cơ sở cho các quỹ giao dịch trao đổi như ETF.
VN hiện nay vẫn tiếp tục nằm ở chỉ số ẩn chứa nhiều rủi ro, kém phát triển ít hấp dẫn khách đầu tư là “Chỉ số MSCI Frontier Markets Index”. Nó bao gồm các nước: Kenya, Kuwait, Argentina, Bahrain, Bangladesh, Botswana, Bulgaria, Croatia, Estonia, Jordan, Kazakhstan, Lebanon, Lithuania, Mauritius, Morocco, Nigeria, Oman, Pakistan, Palestine, Romania, Serbia, Slovenia, Sri Lanka, Ukraine, Tunisia, và Việt Nam. Đối với hồ sơ các thị trường mới nổi, qua Chỉ số MSCI Emerging Market, để theo dõi hiệu suất của thị trường chứng khoán của các nước, nó bao gồm các nước đang phát triển: Hàn Quốc, Malaysia, Mexico, Brazil, Chile, Trung Quốc, Colombia, Cộng hòa Séc, Ai Cập, Hy Lạp, Hungary, Ấn Độ, Indonesia, Peru, Philippines, Ba Lan, Qatar, Nga, Nam Phi, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, United Arab Emirates, và Đài Loan (Trung Quốc đặt được nửa chân vào thị trường này, và chỉ chờ thủ tục nới cổ phiếu hạng A/B trên thị trường Thượng Hải là được vào).

Nếu chính phủ VN hay thấp hơn là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (VN) hay tate Security Commission of Vietnam – SSC muốn được nâng đỡ cao hơn qua chỉ số MSCI Emerging Market thì phải qua cửa ải mà Morgan Stanley bỏ phiếu bình chọn chấp thuận, nên đừng hồ đồ đồ mà qua mắt tôi, cái tên ROS, FLC chỉ là hạng cò con.

Kết luận của tôi là cái UBCK NN hay SSC nên theo dõi hồ sơ mã ROS, FLC này, nếu không thì cứ ngồi yên ở chỉ số MSCI Frontier Markets Index kia, và đừng gân cổ cái lý với ai cả, và cũng đừng điên cuồng đánh sập FB của tôi làm gì cho mất thời gian.

Đó là họ cần phải có sự lựa chọn khó khăn là cần minh bạch thị trường thì quốc tế mới nâng đỡ VN là đưa VN vào thị trường mới nổi nhanh hơn để nền kinh tế huy động vốn dễ dàng qua kênh chứng khoán, đừng để mấy hạt sạn chỉ biết kinh doanh bất động sản vốn ít nợ nhiều đòn bẩy tài chính lớn, không thể xuất khẩu thu về ngoại tệ nâng đỡ cho tỷ giá hối đoái đồng bạc VND có giá mà cản trở VN phát triển, đó là điều đáng tiếc, là về dài nền kinh tế VN vẫn phải dựa vào quá lớn hệ thống tài chính ngân hàng thì sẽ mãi mãi là nước nghèo, vay nợ cao,…

 PS: Trịnh Văn Quyết này phần lớn sở hữu hầu hết cổ phiếu FLC vậy mà giá nó vẫn rơi như vậy thì đúng là khó tin, vì nếu kiểm soát hết cổ phần như vậy họ dễ dàng ngăn chặn giá rơi bằng việc kiểm soát giá cả đó là rất dễ.

CASE STUDY N0.980 : CHỦ NGHĨA TƯ BẢN THÂN HỮU LÀ GÌ?

1-Khái niệm :

Chủ nghĩa tư bản thân hữu là thuật ngữ được dùng để mô tả một nền kinh tế mà trong đó thành quả kinh doanh phụ thuộc vào các mối quan hệ thân thiết giữa các doanh nhân và các quan chức chính quyền. Nó được biểu hiện bằng cách cư xử thiên vị của chính quyền cho các doanh nghiệp thân hữu trong việc cung cấp tài chính, giấy phép, các khoản miễn giảm thuế và các hình thức can thiệp khác.

2-Biểu hiện”

Trước hết, xây dựng mối quan hệ với các quan chức là rất quan trọng để có thể làm ăn dễ dàng. Rất nhiều doanh nghiệp coi đây không chỉ là một sự cần thiết, mà còn là một cách đầu tư sinh lợi dễ dàng và hiệu quả. Dự án đầu tư vào các quan chức bắt đầu từ việc tài trợ cho chuyện chạy chức, chạy quyền. Theo dư luận, một số doanh nghiệp thậm chí còn trực tiếp đứng ra vận động và mua phiếu cho không ít các quan chức. Đây là mối quan hệ hai chiều: các doanh nghiệp có thể xin phép được tài trợ, mà các quan chức cũng có thể kêu gọi tài trợ. Nói thẳng ra hay không nói thẳng ra thì cả hai bên đều hiểu cam kết bất thành văn ở đây: “Bọn em giúp anh lên thì sau này anh hỗ trợ cho bọn em”; “Các chú giúp anh lên, thì sau này anh tạo điều kiện cho các chú”. Nhiều nơi sự việc nghiêm trọng đến mức nếu không được các doanh nghiệp ủng hộ thì ít ai có thể chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh. Đây, có lẽ, đang là cách phổ biến nhất hình thành lên hệ thống các doanh nghiệp sân sau, doanh nghiệp thân hữu.

Một cách khác để xây dựng quan hệ với các quan chức là chăm lo hết lòng cho các thủ trưởng và vợ con của họ. Được coi là dự án đầu tư, nên các doanh nghiệp rất chịu khó và rất tinh tế ở đây. Họ tìm hiểu không chỉ gu thời trang, món khoái khẩu của các ông anh, bà chị, các cậu ấm, cô chiêu, mà còn tất tần tật về ngày sinh nhật, ngày giỗ chạp, về lễ kỷ niệm ngày cưới, ngày khánh thành nhà… Không cần phải gợi ý, chỉ cần có cơ hội hoặc chỉ cần đoán ra ông anh, bà chị thích gì là họ khuân đến nhà ngay hoặc tìm cách đáp ứng ngay. Sự tận tụy được đáp lại bằng mối quan hệ thân hữu. Không chỉ người dân, mà nhiều khi các quan chức cấp dưới gặp được thủ trưởng còn khó. Thế nhưng cậu em/cô em bên doanh nghiệp X, Y Z… gọi điện là anh bắt máy liền; mời đến là anh đến liền.

Quan hệ thân hữu còn được hình thành lên theo một cách tự nhiên hơn. Đó là hiện tượng người nhà của các quan chức đứng ra thành lập doanh nghiệp. Khi có cha, anh làm quan to, thì vợ con, em út lập tức đứng ra thành lập doanh nghiệp. Họ kinh doanh rất nhàn hạ và giàu có lên một cách nhanh chóng nhờ mối quan hệ thân hữu không cần phải đầu tư mà vẫn có sẵn của mình. Những doanh nghiệp kiểu này chẳng cần vốn, mà cũng chẳng cần có kiến thức, kỹ năng kinh doanh, họ chỉ cần đón lõng và cắt phần trăm đối với tất cả các dự án mà người nhà của họ có quyền quyết định.

3-Hệ lụy :

Tuy nhiên, cách làm ăn dựa vào quan hệ thân hữu đang để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước.

Trước hết, nó làm cho môi trường kinh doanh bị hủy hoại nghiêm trọng. Thế nhưng cải cách hành chính sẽ làm được gì, nếu muốn làm ăn dễ dàng cứ phải đầu tư cho quan hệ? Không có quan hệ, có vẻ như mọi cơ hội đều đóng lại đối với các doanh nghiệp hoặc chi phí kinh doanh của họ bị đội lên đến mức không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị phá sản. Ở một số địa phương, việc gia nhập thị trường là gần như là không thể đối với các doanh nghiệp không nằm trong nhóm thân hữu hoặc ở địa phương khác đến. Các doanh nghiệp không hiểu điều này sẽ được các cơ quan công quyền hoặc thậm chí xã hội đen “dạy dỗ” đến nơi đến chốn ngay.

Thứ hai, cạnh tranh lành mạnh như là một động lực thúc đẩy phát triển hoàn toàn bị triệt tiêu. Chất lượng cao ư? Giá rẻ ư? Chẳng quan trọng! Quan trọng là phải có quan hệ thân hữu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao các doanh nghiệp ở Việt Nam ít đầu tư vào khoa học-công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Hệ quả tiếp theo là năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế cũng rất thấp.

Thứ ba, bất công và bất bình xã hội đang bị tích tụ lại ngày một nhiều hơn. Nếu mọi cơ hội đều do nhóm thân hữu tận hưởng hết, thì cái gì sẽ còn lại cho những người dân? Không ai không nhìn thấy nhiều doanh nghiệp đang giàu lên nhanh chóng nhờ được hưởng chênh lệch địa tô, được ưu tiên, ưu đãi trong việc tiếp cận các nguồn lực của đất nước, tiếp cận hợp đồng, tiếp cận thương quyền; các quan chức cũng giàu lên nhanh chóng nhờ được doanh nghiệp lại quả và cung phụng.

Thứ tư, chủ nghĩa tư bản thân hữu dẫn đến tham nhũng. Tham nhũng là gì nếu chẳng phải là lạm dụng quyền lực công vì lợi ích tư. Nhiều quan chức đã sử dụng quyền lực được nhân dân trao cho để ưu tiên, ưu đãi cho nhóm thân hữu và hưởng lợi từ sự lại quả của nhóm này. Chính vì vậy, chủ nghĩa tư bản thân hữu tràn lan cũng đang làm cho tham nhũng xảy ra tràn lan.

Cuối cùng, cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là rất quan trọng đối với sự tồn vong của chế độ. Chính chủ nghĩa tư bản thân hữu đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 làm cho xã hội ở Thái Lan bị mất ổn định nghiêm trọng, còn chính quyền ở In-đô-nê-xia thì bị sụp đổ: cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu có rất nhiều khó khăn, nhưng không phải là không có những thuận lợi. Khó khăn là vì không có lực lượng đối lập thì cơ chế giám sát từ bên ngoài là rất yếu, nhưng thuận lợi là vì khi đã quyết tâm thì không có một thế lực nào khác có đủ sức mạnh ngăn cản. Vấn đề là chế độ có thật sự quyết tâm chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu vì sự tồn vong của chính mình hay không.

CASE STUDY N0.979 : CÁC QUỐC GIA DÂN CHỦ PHƯƠNG TÂY ĐANG ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG THÁCH THỨC LỚN NHẤT TRONG NHIỀU THẬP KỶ

Trên khắp thế giới, giới chuyên gia nói rằng các quốc gia dân chủ đang phải đối mặt với thử thách lớn nhất trong nhiều năm khi người dân đang dần mất lòng tin vào chính quyền và thất vọng với giới tinh hoa chính trị.

Từ sự kiện Brexit đến cuộc bầu cử ở Mỹ, những hoạt động dân chủ bị ảnh hưởng bởi chia rẽ chính trị, đem lại những chiến thắng không thuyết phục, và dẫn đến việc kết quả gây ra nhiều tranh cãi.

“Danh tiếng của các nền dân chủ lớn nhất thế giới đang bị vấy bẩn”, Arch Puddington, nhà nghiên cứu chế độ Dân chủ tại Freedom House, nói với CNN.

Có lẽ nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những hỗn loạn chính trị trong những năm gần đây là do người dân khinh thường phiên bản dân chủ đề ra bởi các nhà lãnh đạo thể chế phương Tây. Bị những đảng chính trị dòng chính bỏ qua và chán ghét cảnh kinh tế trì trệ, thậm chí trong một số trường hợp, sợ hãi ảnh hưởng của nhập cư, cử tri “xả giận” vào các cuộc bầu cử.

Cú sốc đầu tiên là vào tháng 6 năm ngoái khi người Anh bỏ phiếu rời Liên minh châu Âu EU. 5 tháng sau đó, Mỹ làm cả thế giới choáng váng khi chọn ông Donald Trump làm tổng thống. Nhưng nếu Brexit và Trump xoay hướng chính trường theo chủ nghĩa dân túy, ông Puddington tin rằng gốc rễ vấn đề nằm ở cuộc khủng hoảng tài chính 2008.

Chính việc EU không đủ khả năng tự kéo mình ra khỏi “hố” kinh tế và thất bại trong việc giải quyết khủng hoảng di cư đã đóng góp cho sự trỗi dậy của các đảng chống thể chế trên khắp lục địa. Ông Puddington cho rằng những vấn đề này không có câu trả lời duy nhất. Tại một số quốc gia, câu trả lời chính là các chính trị gia cực hữu.

Tại Pháp, bà Marine Le Pen, lãnh đạo đảng Mặt trận Tổ quốc, đang lên kế hoạch tập trung vào quan điểm chống EU, chống nhập cư trong cuộc đua giành ghế tổng thống Pháp. Bà hy vọng sẽ kêu gọi được những người tin rằng họ bị bỏ lại phía sau trong tiến trình toàn cầu hóa.

Nếu thắng cử, bà Le Pen hứa sẽ hạn chế nhập cư, tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc Pháp rời EU, và bảo vệ Pháp khỏi xu hướng “chủ nghĩa đa văn hóa Anglo-Saxon” và chủ nghĩa tự do chính trị, mặc dù bà sẽ phải đối mặt với những rào cản lớn của nghị viện và hiến pháp. Dù kế hoạch này tốt hay xấu, ít nhất bà cũng lọt vào vòng 2 cuộc bầu cử, và có cơ hội chiến thắng.

Kết quả vòng 1 bầu cử Pháp diễn ra ngày 23/4 bác bỏ hoàn toàn nền chính trị truyền thống ở Pháp. Đây là lần đầu tiên ứng viên của 2 đảng chính trị lớn cánh tả và cánh hữu nước này không được vào vòng 2, kể từ khi nền cộng hòa thứ V được thành lập năm 1958.

 “Làn sóng chống thể chế đang lan khắp châu Âu”, Sophie Gaston, Giám đốc Dự án Quốc tế và Các Vấn đề Đối ngoại tại Demos, nói với CNN. “Vì vậy có mối liên hệ giữa nhập cư và chủ nghĩa dân túy cực hữu”, ông nhận xét.

Không chỉ ở Pháp, tại Ba Lan, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ, người dân cũng ủng hộ chính phủ dân túy, những người ngày càng trở nên độc tài trong những năm gần đây.

Sau sự kiện Brexit hay bầu cử Mỹ, các quốc gia bị chia rẽ rõ rệt. Trong cuộc trưng cầu dân ý để Anh rời EU, phe bầu rời đi chiến thắng chỉ với 52%. Kết quả không thuyết phục này dẫn đến việc người dân biểu tình phản đối và quốc hội nước này phải thương lượng nội bộ dài hạn. Cuối cùng, thủ tướng Anh khi đó là ông David Cameron phải xin từ chức vì không thể thuyết phục được nước này ở lại EU.

Tương tự, ở Mỹ ông Trump kém bà Hillary Clinton hơn 2,9 triệu phiếu phổ thông nhưng lại thắng ở vòng phiếu bầu đại cử tri. Vì vậy, người Mỹ cũng không chấp nhận kết quả này và nhiều cuộc biểu tình cũng từng nổ ra để phản đối. Hay tại Thổ Nhĩ Kỳ, tổng thống Recep Tayyip Erdogan cũng chỉ giành được chiến thắng rất sít sao 51%, kém hơn nhiều dự đoán của ông.

Cả 3 sự kiện trên đều khiến dân chúng giận dữ, kêu gọi chính quyền hủy kết quả và đổ tội cho “tin giả mạo”, các hành động không trung thực và chơi xấu.

CASE STUDY N0.978 : “Điều kỳ diệu kinh tế” ở châu Á đã kết thúc ?

Đối mặt với những bất ổn về kinh tế, chính trị và an ninh, châu Á ngày nay nhiều khả năng sẽ trở thành khu vực nảy sinh bất ổn, xung đột, thay vì tự do và thịnh vượng như từng được kỳ vọng.

Theo nhận định của Viện Doanh nghiệp Mỹ (AEI), tại thời điểm Nhật Bản nổi lên thành một thế lực kinh tế trong những năm 1970, nhiều chuyên gia đã dự báo về sự xuất hiện của “Thế kỷ châu Á”. Thế nhưng sự trỗi dậy ấn tượng này chưa được thể hiện trong các vấn đề quốc tế và dường như sẽ không thành hiện thực.

Khi vai trò của châu Á ngày một lớn trên trường quốc tế, người ta lại càng thấy được những hạn chế của nó. Khu vực này hiện bị chia rẽ sâu sắc, bị đe dọa bởi tình trạng đình trệ kinh tế, bất ổn chính trị, nhiều điểm nóng có thể kích hoạt các cuộc chiến tranh mới.

Từ Nhật Bản cho tới Ấn Độ, các nước châu Á đang phải vật lộn để duy trì tăng trưởng, cân bằng kinh tế, chống suy thoái. Những lo ngại hiện hữu gồm có phát triển không đồng đều, bong bóng tài sản, thách thức về lao động và sự kiểm soát của nhà nước đối với các thị trường.

Mối nguy lớn nhất có lẽ là đà giảm tốc của kinh tế Trung Quốc. Khi sàn giao dịch mở cửa hôm 12/6/2015, giá trị vốn hóa thị trường trên sàn chứng khoán Thượng Hải đã tăng tới 100% so với thời điểm mùa Hè năm 2014. Từ đây bong bóng xuất hiện. Lo ngại về kinh tế suy yếu, phá giá tiền tệ cùng với trái bom nợ thiếu bền vững trị giá tới 30.000 tỷ USD khiến các thị trường tại Trung Quốc rơi tự do.

Trong vài tuần, thế giới bắt đầu đặt câu hỏi liệu có phải thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc đã chấm dứt? Ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy quốc gia đông dân nhất thế giới có thể bước vào thời kỳ trì trệ kéo dài, được đánh dấu bởi làn sóng rút vốn khỏi Đại lục, ở mức 725 tỷ USD trong năm 2016. Lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải đề ra các chương trình cải cách thực chất để duy trì tăng trưởng dù chỉ ở mức khiêm tốn trong những năm tới đây.

Các nền kinh tế phát triển khác ở châu Á cũng gặp phải những vấn đề riêng. Nhật Bản tiếp tục loay hoay tìm cách thoát khỏi tình trạng kinh tế đình trệ trong suốt 25 năm qua. Đa phần người dân Nhật Bản có mức sống cao, nhưng việc duy trì các gói kích thích kinh tế kéo dài hàng thập kỷ cũng như quá chú trọng vào xuất khẩu đã khiến Nhật Bản thậm chí không thể đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm là 1%.

Các công ty, tập đoàn lớn của Nhật Bản từng thống trị thế giới nay phải vật lộn với thị phần suy giảm, hoạt động kém hiệu quả, thiếu cải tiến. Chương trình cải cách kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe không giúp thay đổi văn hóa kinh doanh ngại rủi ro của các công ty hay xóa bỏ những rào cản không cần thiết để khởi động cải tiến và khởi nghiệp.

Một nguy cơ nữa liên quan đến nhân chủng học. Suy giảm dân số chính thức diễn ra ở Nhật Bản vào năm 2011, do tỷ lệ sinh giảm trong hàng thập kỷ. Bộ Y tế nước này cùng nhiều chuyên gia lo ngại dân số Nhật Bản (127 triệu người theo thống kê tại thời điểm năm 2014) có thể sẽ giảm 1/3 vào năm 2060.

Thất bại trong việc nâng mức sinh đẻ dẫn tới hệ quả Nhật Bản là nước có tỷ lệ dân số già lớn nhất thế giới, với 33% dân số trên độ tuổi 60 vào năm 2015. Quốc gia này hiện có tới hơn 58.000 người thọ trên 100 tuổi và không một xã hội phát triển nào lại phải đối mặt với thách thức lớn đến vậy như Nhật Bản.

Vấn đề dân số của Nhật Bản ngày nay sẽ là câu chuyện của Hàn Quốc, Đặc khu Hành chính Hong Kong, Vùng lãnh thổ Đài Loan và Singapore nay mai. Ví dụ như ở Hàn Quốc, dự báo kịch bản tồi tệ nhất sẽ là quy mô dân số tụt xuống 10 triệu người vào năm 2036 so với mức 50 triệu người hiện nay, do tỷ lệ sinh thấp, trung bình 1,19 trẻ/bà mẹ.

Dân số giảm sẽ khiến các nước này gặp khó trong việc duy trì nguồn lực lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh, buộc phải cải cách thiết chế xã hội khi đối mặt với tình trạng già hóa dân số.

Với Trung Quốc, vấn đề nhân chủng học bắt nguồn từ chính sách một con được thực thi từ năm 1979. Từ năm 2012-2014, lực lượng lao động Trung Quốc giảm 9,5 triệu người, cùng với đó là xu thế di dân lao động ra các trung tâm sản xuất ở vùng duyên hải.

Dân số Trung Quốc sẽ bắt đầu suy giảm từ năm 2030, dù Bắc Kinh đã nới lỏng một số quy định về sinh con vào năm 2015. Nó đặt ra những áp lực không nhỏ trong việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội cho người già.

Đối lập với xu thế già hóa, bùng nổ dân số có thể xảy ra ở Ấn Độ và Indonesia. Hầu hết các nước Nam Á và Đông Nam Á phải đối mặt với nguy cơ gia tăng dân số, với Ấn Độ được dự báo sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới vào năm 2022.

Dân số trẻ đồng nghĩa với các áp lực về giáo dục, việc làm, cơ sở hạ tầng, nâng cao mức sống. Hầu hết các nước nghèo đều thất bại trong việc chuyển nguồn lực lao động dồi dào thành tài sản kinh tế để hướng tới thịnh vượng bền vững.