TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0.928: LUẬT ĐẦU TƯ 2014: ĐÃ ĐẾN LÚC KHAI TỬ ?

Trước đây doanh nghiệp trong nước hoạt động theo Luật Công ty (1990), Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và sau đó gộp chung thành Luật Doanh nghiệp (1999). Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, lần đầu tiên ra đời năm 1988, sau đó được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, lần sau cùng vào năm 2000. Nói chung hai bên đi theo hai con đường khác nhau hoàn toàn.

Đột nhiên nảy sinh chuyện đối xử quốc gia và tối huệ quốc khi Việt Nam khởi động quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có nghĩa khi đã trở thành thành viên của WTO thì Việt Nam phải cam kết sự đối xử của quốc gia với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài như nhau, với một nước thành viên này như thế nào thì với các nước thành viên còn lại phải như thế.

Nguyên tắc đối xử quốc gia như thế buộc Việt Nam phải soạn một Luật Doanh nghiệp chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả tư nhân trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để khỏi mang tiếng phân biệt đối xử. Soạn một luật như thế thì dễ nhưng vấn đề đặt ra là lúc đó Việt Nam còn muốn bảo vệ nhiều ngành non trẻ, không muốn đầu tư nước ngoài đi vào một số lĩnh vực nhạy cảm như phân phối, không muốn nhà đầu tư nước ngoài sau khi được cấp giấy phép thành lập mà cứ thế mở rộng hoạt động ra khắp cả nước.

Sau năm 2006, Việt Nam có một lộ trình thực hiện các cam kết mở cửa thị trường với WTO nên Luật Đầu tư vẫn được xem là cần thiết như một cái phao để giới quản lý sử dụng một khi muốn ép nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ lộ trình. Nay mọi chuyện đã khác, Luật Đầu tư coi như đóng xong vai trò vì hầu như các cam kết WTO Việt Nam đã thực thi hết.

Từ đó mới có chuyện soạn và ban hành Luật Đầu tư, trên danh nghĩa là áp dụng cho tất cả nhưng thực tế là nhắm đến nhà đầu tư nước ngoài để hạn chế hoạt động của họ như một phương cách bảo hộ sản xuất trong nước mà không vi phạm cam kết WTO. Cả hai luật này ra đời vào năm 2005 và được sửa đổi bổ sung gần đây nhất vào năm 2014.

Ngay từ năm 2005 khi vừa ra đời, Luật Đầu tư đã bị cho là có nhiều điểm bất hợp lý, làm rắc rối môi trường đầu tư một cách không cần thiết. Người bình thường không thể nào phân biệt được vì sao có giấy đăng ký kinh doanh rồi mà vẫn có thêm giấy chứng nhận đầu tư, chúng giống nhau và khác nhau điểm nào, ai cần giấy gì… Nhưng như đã nói ở trên, giai đoạn sau năm 2006 lúc Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung có hiệu lực, Việt Nam có một lộ trình thực hiện các cam kết mở cửa thị trường với WTO nên Luật Đầu tư vẫn được xem là cần thiết như một cái phao để giới quản lý sử dụng một khi muốn ép nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ lộ trình.

Nay mọi chuyện đã khác, Luật Đầu tư coi như đóng xong vai trò vì hầu như các cam kết WTO Việt Nam đã thực thi hết, đâu còn cái mong muốn bảo vệ, chẳng hạn, hệ thống phân phối trong nước. Thậm chí nhiều người nước ngoài cứ sử dụng người trong nước làm “chân gỗ” để thành lập doanh nghiệp, hoạt động được một thời gian thì “bán lại” một cách hợp pháp và không chịu mảy may ràng buộc nào. Ngược lại Luật Đầu tư giờ lại thành rào cản cho doanh nghiệp trong nước mỗi khi muốn triển khai dự án làm ăn mới.

Cách đây năm năm, TBKTSG từng có bài Giữ hay bỏ Luật Đầu tư?, trong đó nêu một lập luận quan trọng: “Một trong những ví dụ “bức bối” nhất được các chuyên gia dẫn ra là quy định về thủ tục đăng ký, thẩm tra đầu tư. Mục tiêu của quy định này thực sự không rõ. Cụ thể, muốn triển khai một dự án đầu tư, tùy theo tính chất, quy mô nhà đầu tư phải làm thủ tục đăng ký hoặc thẩm tra đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư phải giải trình hàng loạt vấn đề như về sử dụng đất đai; xây dựng; xử lý môi trường… Tuy nhiên, sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư vẫn phải lặp lại những thủ tục nói trên tại các cơ quan khác theo quy định của các luật chuyên ngành. Như vậy, rõ ràng thủ tục đăng ký, thẩm tra là thừa và chồng lấn”.

Thử hình dung theo lập luận thông thường, một doanh nghiệp, có khó là khó khi ra đời, làm thủ tục thành lập. Chứ một khi đã ra đời rồi, trong quá trình hoạt động chắc chắn sẽ có nhiều dự án đầu tư khác nhau. Không lẽ mỗi dự án đầu tư đều phải bị chi phối bởi Luật Đầu tư này. Vì sao một số loại dự án đầu tư phải được Nhà nước thẩm định trước khi cấp phép đầu tư?

Cái người dân trông mong Luật Đầu tư có thể ngăn ngừa doanh nghiệp có dự án gây ô nhiễm môi trường phải thông qua nhiều công đoạn đánh giá tác động môi trường, đạt rồi mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Thực tế chuyện này Luật Môi trường đóng vai trò quan trọng hơn, Luật Đầu tư chỉ rối thêm.

TBKTSG cũng từng có bài ghi nhận: “Theo một nghiên cứu Tổ công tác thi hành Luật Đầu tư – Luật Doanh nghiệp thì ngoài sự chồng chéo, trùng lặp còn có sự không tương thích thậm chí mâu thuẫn với luật chuyên ngành. Một ví dụ điển hình là thủ tục thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đầu tư. Nếu chủ đầu tư thực hiện theo Luật Đầu tư thì vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường và ngược lại. Báo cáo cho biết, để cho xong chuyện “đa số các địa phương đã chọn phương án “vi phạm” Luật Môi trường”. Nếu thế chẳng thà không có Luật Đầu tư để chủ dự án phải tuân thủ Luật Môi trường còn hơn.

Luật Đầu tư nói chung là nơi đẻ ra nhiều giấy phép con mà không giúp gì nhiều cho việc quản lý của nhà nước, lại mất đi vai trò là cái cương kiềm tỏa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vậy bỏ nó đi là một ý kiến không phải là không hợp lý. Vấn đề là chọn thời điểm thích hợp để tích hợp luật này vào Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác.

Giả thử đưa ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh hay kinh doanh có điều kiện vào Luật Doanh nghiệp thì Luật Đầu tư hầu như không còn gì, có thể tích hợp vào Luật Doanh nghiệp một cách dễ dàng. Còn lại những dự án quốc gia thì cứ đưa vào Luật Đầu tư công là ổn thỏa. Nên nhớ cách làm phổ biến hiện nay của các doanh nghiệp lớn là phải thành lập doanh nghiệp mới mỗi khi có dự án mới; họ làm vậy để khoanh trách nhiệm hữu hạn vào doanh nghiệp mới mà thôi, doanh nghiệp mẹ không liên quan. Chính vì thế Luật Doanh nghiệp mới là quan trọng, là nền tảng cho hoạt động kinh doanh, đầu tư trong nước chứ không phải Luật Đầu tư.

CASE STUDY N0.927: Luật doanh nghiệp 2014:CÒN 3 ĐIỀU BẤT HỢP LÝ

1-Thống nhất pháp nhân đăng ký kinh doanh

Tại Điều 3 về “Áp dụng Luật DN và các luật chuyên ngành”, Luật DN năm 2014 quy định như sau: “Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của DN thì áp dụng quy định của Luật đó”. Mặc dù hiện nay, hoạt động luật sư, công chứng, đấu giá, giám định, giáo dục, đào tạo, trọng tài thương mại… cũng đã được xác định rõ là các ngành, nghề đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư năm 2014. Tuy nhiên, các ngành, nghề này lại không được đăng ký kinh doanh tại Cơ quan đăng ký kinh doanh, mà chỉ được thực hiện việc cấp giấy phép và đăng ký hoạt động riêng theo Luật Luật sư, Luật Công chứng, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Trọng tài thương mại… Hậu quả là nhiều Cty như Cty luật và pháp nhân khác hoạt động như một DN, nhưng lại hoàn toàn không có thông tin trên “cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký DN”.

Ngoài ra còn một thực tế, các ngân hàng thương mại, Cty tài chính thì đăng ký DN như các DN khác. Trong khi đó, Cty bảo hiểm, là một DN điển hình, thì lại không thực hiện thủ tục này. Vì đoạn 2, Điều 65 về “Thời hạn cấp giấy phép”, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định: “Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.” Nhưng đáng chú ý hơn, hộ kinh doanh hay hợp tác xã, tuy không được xác định là DN theo theo quy định của Luật DN hay Luật Hợp tác xã năm 2012, nhưng vẫn thực hiện việc đăng ký kinh doanh như đối với DN.

2-Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật

Theo Khoản 2, Điều 13 về “Người đại diện theo pháp luật của DN”, Luật DN năm 2014 quy định:“Cty TNHH và Cty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ Cty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của DN”. Tuy nhiên trên thực tế, DN có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp bất lợi. Đồng thời gây khó khăn và rủi ro rất lớn cho đối tác giao dịch với DN, vì không phải lúc nào cũng tiếp cận được Điều lệ và không bảo đảm việc xác định được chính xác nội dung phân quyền cũng như bản Điều lệ nào có hiệu lực thật sự.

Chính vì vậy, Luât DN sửa đổi theo hướng Cty hợp danh có nhiều người đại diện theo pháp luật. Cty TNHH và Cty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật có quyền, nghĩa vụ như nhau và Điều lệ Cty phải quy định cụ thể số lượng và chức danh quản lý của các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và phải đăng ký với Cơ quan đăng ký DN.

3-Xem xét lại việc quản lý, sử dụng con dấu

Theo Khoản 3 và 4, Điều 44 về “con dấu của DN”, Luật DN năm 2014 quy định: “3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ Cty. 4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu”. Tuy nhiên, Khoản 3, Điều 1 về “Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng”, Nghị định số 96/2015 ngày 19/10/2015 “Quy định chi tiết một số điều của Luật DN” đã quy định không áp dụng quy định của Điều luật trên đối với 6 đạo luật, gồm Luật Công chứng, Luật Luật sư, Luật Giám định tư pháp, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán và Luật Hợp tác xã, là trái với quy định của Luật DN năm 2014. Đồng thời không hợp lý giữa các loại hình DN, như ngân hàng thương mại thì được quyền quyết định về con dấu, trong khi Cty chứng khoán thì không. Trên thực tế, DN tư nhân không bao giờ có Điều lệ, vì vậy quy định tại khoản 3 là không hợp lý. Đồng thời, khoản 1, Điều 25 về “Điều lệ Cty”, Luật DN năm 2014 cũng không quy định việc quản lý, sử dụng con dấu là những nội dung bắt buộc phải có trong Điều lệ .

Quy định “con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật” gây khó khăn lớn cho DN, các bên giao dịch và các cơ quan nhà nước. Đa số các trường hợp pháp luật quy định phải đóng dấu cũng chỉ là về kỹ thuật soạn thảo, chứ không phải là bắt buộc phải có. Theo quy định tại Điều 1, Nghị định 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ “Về quản lý và sử dụng con dấu”, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 31/2009/NĐ-CP ngày 01/4/2009, quy định việc đóng dấu của các DN là nhằm “thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ”. Vậy, giá trị pháp lý như thế nào đối với trường hợp bắt buộc phải đóng dấu theo quy định của Luật DN?

Do vậy, Luật DN cần xem xét quy định, việc quản lý, sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Điều lệ hoặc văn bản của Cty. Luật cũng cần bỏ hẳn việc bắt buộc phải đóng dấu theo một trong 2 cách sau: Thứ nhất, quy định không bắt buộc phải đóng dấu trong mọi trường hợp. Thứ hai, sau 3 năm, chỉ phải đóng dấu trong trong trường hợp có quy định của Luật, đồng thời các nghị định, thông tư không được quy định mới về việc bắt buộc phải đóng dấu.

 

CASE STUDY N0.927: Luật doanh nghiệp 2014:CÒN 3 ĐIỀU BẤT HỢP LÝ

1-Thống nhất pháp nhân đăng ký kinh doanh

Tại Điều 3 về “Áp dụng Luật DN và các luật chuyên ngành”, Luật DN năm 2014 quy định như sau: “Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của DN thì áp dụng quy định của Luật đó”. Mặc dù hiện nay, hoạt động luật sư, công chứng, đấu giá, giám định, giáo dục, đào tạo, trọng tài thương mại… cũng đã được xác định rõ là các ngành, nghề đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư năm 2014. Tuy nhiên, các ngành, nghề này lại không được đăng ký kinh doanh tại Cơ quan đăng ký kinh doanh, mà chỉ được thực hiện việc cấp giấy phép và đăng ký hoạt động riêng theo Luật Luật sư, Luật Công chứng, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Trọng tài thương mại… Hậu quả là nhiều Cty như Cty luật và pháp nhân khác hoạt động như một DN, nhưng lại hoàn toàn không có thông tin trên “cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký DN”.

Ngoài ra còn một thực tế, các ngân hàng thương mại, Cty tài chính thì đăng ký DN như các DN khác. Trong khi đó, Cty bảo hiểm, là một DN điển hình, thì lại không thực hiện thủ tục này. Vì đoạn 2, Điều 65 về “Thời hạn cấp giấy phép”, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định: “Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.” Nhưng đáng chú ý hơn, hộ kinh doanh hay hợp tác xã, tuy không được xác định là DN theo theo quy định của Luật DN hay Luật Hợp tác xã năm 2012, nhưng vẫn thực hiện việc đăng ký kinh doanh như đối với DN.

2-Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật

Theo Khoản 2, Điều 13 về “Người đại diện theo pháp luật của DN”, Luật DN năm 2014 quy định:“Cty TNHH và Cty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ Cty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của DN”. Tuy nhiên trên thực tế, DN có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp bất lợi. Đồng thời gây khó khăn và rủi ro rất lớn cho đối tác giao dịch với DN, vì không phải lúc nào cũng tiếp cận được Điều lệ và không bảo đảm việc xác định được chính xác nội dung phân quyền cũng như bản Điều lệ nào có hiệu lực thật sự.

Chính vì vậy, Luât DN sửa đổi theo hướng Cty hợp danh có nhiều người đại diện theo pháp luật. Cty TNHH và Cty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật có quyền, nghĩa vụ như nhau và Điều lệ Cty phải quy định cụ thể số lượng và chức danh quản lý của các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và phải đăng ký với Cơ quan đăng ký DN.

3-Xem xét lại việc quản lý, sử dụng con dấu

Theo Khoản 3 và 4, Điều 44 về “con dấu của DN”, Luật DN năm 2014 quy định: “3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ Cty. 4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu”. Tuy nhiên, Khoản 3, Điều 1 về “Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng”, Nghị định số 96/2015 ngày 19/10/2015 “Quy định chi tiết một số điều của Luật DN” đã quy định không áp dụng quy định của Điều luật trên đối với 6 đạo luật, gồm Luật Công chứng, Luật Luật sư, Luật Giám định tư pháp, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán và Luật Hợp tác xã, là trái với quy định của Luật DN năm 2014. Đồng thời không hợp lý giữa các loại hình DN, như ngân hàng thương mại thì được quyền quyết định về con dấu, trong khi Cty chứng khoán thì không. Trên thực tế, DN tư nhân không bao giờ có Điều lệ, vì vậy quy định tại khoản 3 là không hợp lý. Đồng thời, khoản 1, Điều 25 về “Điều lệ Cty”, Luật DN năm 2014 cũng không quy định việc quản lý, sử dụng con dấu là những nội dung bắt buộc phải có trong Điều lệ .

Quy định “con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật” gây khó khăn lớn cho DN, các bên giao dịch và các cơ quan nhà nước. Đa số các trường hợp pháp luật quy định phải đóng dấu cũng chỉ là về kỹ thuật soạn thảo, chứ không phải là bắt buộc phải có. Theo quy định tại Điều 1, Nghị định 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ “Về quản lý và sử dụng con dấu”, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 31/2009/NĐ-CP ngày 01/4/2009, quy định việc đóng dấu của các DN là nhằm “thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ”. Vậy, giá trị pháp lý như thế nào đối với trường hợp bắt buộc phải đóng dấu theo quy định của Luật DN?

Do vậy, Luật DN cần xem xét quy định, việc quản lý, sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Điều lệ hoặc văn bản của Cty. Luật cũng cần bỏ hẳn việc bắt buộc phải đóng dấu theo một trong 2 cách sau: Thứ nhất, quy định không bắt buộc phải đóng dấu trong mọi trường hợp. Thứ hai, sau 3 năm, chỉ phải đóng dấu trong trong trường hợp có quy định của Luật, đồng thời các nghị định, thông tư không được quy định mới về việc bắt buộc phải đóng dấu.

CASE STUDY N0.926:QUỐC TỊCH MALTA

Cuối năm 2013, Malta công bố bán quốc tịch với giá khởi điểm 865.000 USD. Theo đó, bất kỳ ai đủ 18 tuổi trở lên cũng có thể mua quốc tịch Malta để trở thành công dân hợp pháp của quốc đảo này. Đến tháng 9/2014, mức giá đã tăng lên 1,57 triệu USD qua Chương trình Nhà đầu tư Cá nhân của Malta (IIP). (The Guardian, 2014)

Chính sách trên đã hỗ trợ phát triển kinh tế của quốc đảo này. Cụ thể, tổng tài sản thu được từ IIP chiếm 12 – 15% GDP cả nước. Tăng trưởng kinh tế năm 2014 ở mức 3,5% trong khi tỷ lệ thất nghiệp là 5,8%, thấp nhất châu Âu. (NYT, 4/2015).

Thủ tướng Malta Joseph Muscat ước tính sẽ thu được khoảng 40 triệu USD/ năm với 200 – 300 đơn xin nhập tịch/ năm. (AP,2013). Có khoảng 20 quốc gia châu Âu và châu Mỹ khác trên thế giới đã áp dụng chính sách tương tự. (NYT, 2014).

Theo quy định của Việt Nam, người Việt được phép có 2 quốc tịch. Trong dự luật này, người Việt có thể xin quốc tịch Malta qua IIP.

Điều kiện nhập tịch đơn giản

So với những quốc gia châu Âu khác, việc nhập tịch vào Malta khá “dễ thở”. Với số tiền 1,57 triệu USD cùng những điều kiện dưới đây, tấm vé thông hành Malta đã trong tầm tay.

Hồ sơ tư pháp trong sạch

Chính phủ Malta sẽ tiến hành kiểm tra lý lịch tư pháp của đương đơn qua Interpol. Đồng thời, đương đơn phải cung cấp giấy chứng nhận của cơ quan cảnh sát trước khi được chấp thuận trở thành công dân Châu Âu.

Sức khỏe tốt

Tất cả đương đơn phải có bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm sức khoẻ quốc tế và đảm bảo không mắc bệnh truyền nhiễm.

Đóng góp tài chính

Tất cả cá nhân và gia đình đăng ký IIP phải thực hiện đóng góp tài chính không hoàn lại cho Quỹ Phát triển xã hội quốc gia Malta trên các lĩnh vực liên quan đến y tế công cộng, giáo dục, việc làm, cải thiện xã hội…

Đầu tư bất động sản

Đương đơn phải cam kết có một nơi cư trú cố định tại Malta trong khoảng thời gian tối thiểu 5 năm. Đồng thời, đưa ra bằng chứng về việc sở hữu hoặc thuê bất động sản tại quốc đảo này trong vòng 4 tháng kể từ khi nhận được Thư chấp thuận của IIP.

Đầu tư trái phiếu

Trước khi được chấp thuận vào IIP, các đương đơn phải đầu tư ít nhất 150.000 Euro và cam kết duy trì đầu tư tối thiểu 5 năm vào các công cụ tài chính được chính phủ phê duyệt (trái phiếu, cổ phiếu…).

Yêu cầu cư trú

Sau khi đầu tư bất động sản ở Malta, ứng viên sẽ được cấp giấy tờ tùy thân (eResidence). Tuy nhiên, Uỷ ban Châu Âu đã yêu cầu chính phủ Malta thay đổi điều kiện nhập tịch vào nước này. Theo đó, công dân phải định cư ít nhất 1 năm trước khi gia nhập IIP. (BBC, 2014)

Ngoài ra, pháp luật Malta cũng chấp nhận các nhà đầu tư có hai quốc tịch.

Lợi ích hấp dẫn

Thứ nhất, Malta là thành viên chính thức của Liên minh Châu Âu (EU, 2004). Các Hiệp ước tự do đi lại của EU cho phép các công dân Malta sống, làm việc và học tập tại bất kỳ quốc gia nào trong khối và Thụy Sĩ. Như vậy, người mang hộ chiếu Malta được phép di chuyển khắp EU mà không cần xin thị thực. (Financial Times, 2016).

Đồng thời, Malta là thành viên của khối Schengen (2007). Điều này cho phép công dân Malta đi đến 26 quốc gia Châu Âu mà không cần qua kiểm soát biên giới.

Thứ hai, quốc tịch Malta có thể duy trì cho những thế hệ sau. Nhiều nhà đầu tư cho rằng IIP rất đề cao gia đình và mong muốn mang lại cuộc sống tốt hơn cho con cháu.

Ngoài ra, thủ tục pháp lý của IIP khá nhanh gọn. Nếu Việt Nam phải mất 5 năm sinh sống kể từ thời điểm xin nhập tịch thì tại Malta, chỉ cần 12 tháng. Thậm chí, nếu đã đáp ứng được các yêu cầu cư trú của Malta theo tiêu chuẩn IIP, khoảng thời gian được công nhận quốc tịch chỉ trong 6 tháng.

CASE STUDY N0.925: CÁC CHỈ SỐ LỢI NHUẬN :SO SÁNH CÁC DN FDI VỚI KHỐI DN NỘI ĐỊA

1-Hiệu quả sinh lời trên tài sản (ROA), hiệu quả sinh lời trên doanh thu (ROS), hiệu quả sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là 3 chỉ số chính dùng để đo lượng hiệu quả tạo lợi nhuận của một doanh nghiệp.

Theo đó:

+ROA cho biết 1 đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

+ROS cho biết 1 đồng doanh thu của doanh nghiệp thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, đồng thời cho biết khả năng kiểm soát chi phí của doanh nghiệp;

+ ROE cho biết 1 đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, đồng thởi cho biết sự hiệu quả trongsử dụng đồng vốn tự có của doanh nghiệp.

 

Mới đây, một vài con số từ Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015 cung cấp bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) một lần nữa đã dấy lên những câu hỏi về thực trạng này, khi mà doanh nghiệp FDI là khối các doanh nghiệp có tỷ lệ kinh doanh thua lỗ cao nhất, nhưng lại có hiệu quả kinh doanh tốt nhất.

2-Một nửa các doanh nghiệp FDI kinh doanh thua lỗ?

+Theo Báo cáo, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong toàn nền kinh tế giai đoạn gần đây đã tăng lên so với giai đoạn trước, đạt mức 44,8% năm 2013 và tăng lên 45,4% năm 2014, dù nền kinh tế trong 2 năm 2013, 2014 đã có những dấu hiệu hồi phục. Tính trung bình, tỷ lệ các doanh nghiệp thua lỗ trong cả giai đoạn 2007 – 2014 là khoảng 33%.

+Điều đáng nói, tỷ lệ doanh nghiệp FDI kinh doanh thua lỗ luôn cao vượt trội hơn mức trung bình chung của toàn bộ doanh nghiệp và cao hơn tỷ lệ kinh doanh thua lỗ của khối doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Thậm chí có những thời điểm, tỷ lệ này đã vượt trên 50% ở năm 2008 (51,2%).

+Ở các giai đoạn khác nhau, số doanh nghiệp FDI thua lỗ thường xuyên chiếm phân nửa tổng số doanh nghiệp FDI. Nếu như ở giai đoạn 2008-2009 tỷ lệ này ở mức trên dưới 50% thì đến năm 2010, số doanh nghiệp FDI thua lỗ chỉ còn 44,2%. Tuy nhiên đến năm 2011, tỷ lệ này tăng trở lại 45% và giữ đà tăng đó đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ này ở mức xấp xỉ 50%

+Tuy tiếp tục thua lỗ, các doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Có thể kể đến trong thời gian gần đây như việc LG đầu tư 1,5 tỷ USD xây nhà máy tại Việt Nam hay Samsung khởi công nhà máy trị giá 1,4 tỷ USD tại Thành phồ Hồ Chí Minh.

+Vốn dĩ, việc thua lỗ là chuyện không có gì lạ trong kinh doanh. Tuy nhiên tỷ lệ các doanh nghiệp FDI thua lỗ luôn đạt mức xấp xỉ 50% khiến nhiều người tiếp tục phải đặt câu hỏi về sự thật đằng sau của việc thua lỗ này, khi mà khối các doanh nghiệp này tuy thua lỗ nhiều và trong thời gian dài như vậy nhưng vẫn tiếp tục rót vốn vào Việt Nam.

3-Nhưng lại đạt hiệu quả sinh lời cao nhất?

+Xem xét các tỷ số đo lường khả năng sinh lời (ROA, ROE, ROS) của 3 khối doanh nghiệp, các con số đã thể hiện rõ rằng hiệu suất sinh lời của các doanh nghiệp FDI luôn cao nhất và vượt trội so với 2 khu vực doanh doanh nghiệp còn lại. Kết quả này hoàn toàn trái ngược với tỷ lệ các doanh nghiệp FDI thua lỗ cao nhất.

+Về tỷ suất sinh lời trên tài sản, ROA của các doanh nghiệp FDI luôn ở mức cao vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác, dao động từ 11,5% đến 12,8%, gấp đôi DNNN và gấp 2-3 lần so với mặt bằng chung. Ở thời điểm cao nhất vào năm 2012, ROA của toàn bộ khối doanh nghiệp mới chỉ đạt trên 6%.

+Về chỉ số sinh lời trên doanh thu (ROS), ở những thời điểm 2007 – 2009, chỉ số này của các doanh nghiệp FDI thường xuyên cao vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, đang có xu hướng giảm sút trong 4 năm gần đây.

+Như vậy, với 100 đồng doanh thu, DN FDI mang về 10-12 đồng lợi nhuận, trong khi DNNN là 7-8 đồng và các doanh nghiệp khác chỉ khoảng 4-5 đồng.

+Cuối cùng, khối các doanh nghiệp FDI cũng khẳng định khả năng sử dụng hiệu quả nhất các nguồn vốn tự có khi mà chỉ số hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) ở mức cao hơn so với 2 khu vực doanh nghiệp còn lại và vượt xa trung bình. ROE của các doanh nghiệp FDI hầu hết ở mức xấp xỉ 25% trong giai đoạn 2007 -2014.

+Khối doanh nghiếp xếp thứ hai là doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ đạt mức cao nhất vào năm 2010 là 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra hơn 16 đồng lợi nhuận. Trung bình cả nền kinh tế, ROE chỉ ở mức 6%-12%, kém xa vức khu vực doanh nghiệp FDI.

+Thật lạ khi với hiệu quả sinh lời cao, các DN FDI lại thua lỗ nhiều đến thế. Câu hỏi về hiện tượng chuyển giá tiếp tục được đặt ra. Thực sự trong 50% số doanh nghiệp thua lỗ kia, có chính xác bao nhiêu doanh nghiệp chỉ thua lỗ trên sổ sách nhưng lợi nhuận vẫn được chuyển về công ty mẹ?

CASE STUDY N0.924: NỢ CÔNG & MÔ HÌNH PONZI

1-Charles Ponzi, một di dân người Ý đã đến Mỹ vào đầu thế kỷ 20 rồi sau đó trở thành một kế toán, đã nghĩ ra một phương pháp kiếm tiền bất chính từ một thủ thuật lừa đảo mà sau này được đặt theo chính tên của ông.

2-Mô hình Ponzi vận hành như thế nào?

+ Chủ dự tìm cách thu hút tiền của mọi người vào một dự án đầu tư ảo trên giấy, hứa hẹn sẽ trả lãi trên các khoản tiền mà họ đã góp vào. + Tiền lãi này thực chất lại là tiền của chính những người đầu tư vào sau trả cho những người vào trước.

 

+Như vậy, mô hình sẽ vẫn duy trì được cho đến khi không còn thu hút thêm được lượng người mới đủ lớn để trả tiền cho những người vào trước, dẫn tới mô hình cùng kế hoạch lừa đảo sẽ sụp đổ.

+ Cho đến nay, sau gần một thế kỷ, những vụ siêu lừa Ponzi vẫn thi thoảng được lặp lại mà phi vụ lớn nhất phải kể đến gần đây là vụ lừa đảo của Bernard Madoff (nguyên là Chủ tịch hội đồng quản trị của sàn NASDAQ) có quy mô lên tới trên 50 tỷ USD xảy ra năm 2008.

+Ở xứ ta Hãng nước hoa Thanh Hương của Nguyễn Văn 12 cũng là 1 Ponzi !

( FYI :Lúc đó tôi đang làm advisor cho Quỹ tín dụng Đại Thành của ông Lâm Cẩu)

3- Mô hình Ponzi vận hành như thế nào trong lĩnh vực công ?

+ Mô hình Ponzi này gần như chỉ xuất hiện và xảy ra trong lĩnh vực tư nhân, nhưng đó là bề ngoài mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường vì đa phần chúng không phức tạp và nằm trong các mối liên kết có thể dễ dàng nhận biết được.

 

+ Tuy nhiên, theo bài viết vừa đăng trên tờ Project Syndicate của tác giả Koichi Hamada (cố vấn kinh tế đặc biệt cho Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và cũng là giáo sư tại ĐH Yale), không nhiều người biết rằng trong lĩnh vực công, ở cả những nền kinh tế tiên tiến như Mỹ và Nhật Bản, cũng tồn tại mô hình kiểu Ponzi này.

+ Trong lĩnh vực công sẽ khó nhận ra hơn rất nhiều do tính vĩ mô và hai nữa là chúng hợp pháp.

-Thử tưởng tượng, chính phủ đang phải duy trì cả khối tháp là nền kinh tế, và nếu không cẩn thận, khối tháp này sẽ sụp đổ – nền kinh tế sụp đổ, những thành phần kinh tế sụp đổ thì chính phủ tất yếu sẽ sụp đổ.

-Chính phủ ở mặt nào đó, giống với Charles Ponzi, đang đứng trên đỉnh ngọn tháp và có nhiệm vụ duy trì cho những người dân, thành phần kinh tế ở phía dưới họ một cuộc sống tốt từ tiền thuế của người dân đã trả cho chính phủ.

+ Nợ công chính là khoản mà chính phủ phải trả để duy trì mô hình Ponzi của mình.

– Nếu nợ công quá lớn sẽ kìm chặt nền kinh tế của một quốc gia, khiến quốc gia đó và các thành phần trong đó dễ bị tổn thương trước những cú sốc, khủng hoảng.

– Vì lý do này mà nhiều nhà phân tích đã kêu gọi các chính phủ thắt chặt hơn nữa các quy định, luật pháp trong quy trình quản lý nợ công sao cho tương đồng hơn với quy trình quản lý nợ của lĩnh vực tư nhân – vốn chặt chẽ và khắt khe hơn nhiều.

+Việc giảm nợ công không dễ, không chỉ đơn giản là cắt giảm đi vay. Điều hành một nền kinh tế đang trong guồng quay cũng giống như đang lái xe ở tốc độ cao và cũng giống như đột nhiên chuyển hướng chiếc xe ở tốc độ cao sẽ rất nguy hiểm, chính phủ trong vai trò người điều khiển xe sẽ không thể đột nhiên dừng tất cả các khoản vay. Một nền kinh tế đang vận hành trơn tru cũng không được các nhà đầu tư quốc tế chấp nhận xóa nợ chỉ vì nó đang ở mức cao.

 

+ Để đảm bảo, duy trì uy tín của mình trên thị trường nợ quốc tế để có thể tiếp cận các khoản vay sau này một cách thuận tiện, cách duy nhất mà gần như mọi chính phủ đang áp dụng để giảm nợ công đó là tìm cách giảm thâm hụt ngân sách dần dần hay đó cũng chính là cách để duy trì quyền lực của một chính phủ.

4-Lấy Nhật Bản & Đồng Yen làm ví dụ:

+ Không ai khác, chính chính phủ Nhật Bản là những người hiểu thấu vấn đề này nhất.

– Với mức nợ công trên 200% GDP còn nợ ròng (= nợ công trừ tổng các khoản cho vay ra nước ngoài của Nhật Bản) khoảng 130% GDP – cao hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển khác trên thế giới, Nhật đang buộc phải phân bổ một phần lớn trong ngân sách chi tiêu chính phủ hàng năm để phục vụ chi trả các khoản nợ, lãi vay đáo hạn.

– Nhờ có mặt bằng lãi suất rất thấp (thậm chí âm), Nhật Bản đã tiết kiệm được khoản lớn.

 

-Tuy nhiên gánh nặng chi trả nợ vẫn khá lớn, chiếm tới 22% tổng ngân sách chính phủ trong năm tài khóa 2015.

– Rõ ràng, Nhật Bản đang chịu áp lực buộc phải giảm gánh nặng nợ rất rất lớn.

+ Trong điều kiện bình thường, ổn định thì mối đe dọa này có thể không lớn lắm đối với kinh tế và chính phủ Nhật.

+ Nhưng trong bối cảnh hiện tại thì áp lực lại đang rất rất lớn do sự mong manh của nền kinh tế Trung Quốc – đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, cùng với các mối đe dọa đến từ thị trường EU sau Brexit.

+Yên tăng vọt, Nhật Bản khốn khổ vì Brexit

+ Những bất ổn này tạo ra nguy cơ đối với kinh tế toàn cầu và tất nhiên nguy cơ với chính Nhật Bản – một trong những nước nặng nợ nhất thế giới. Hơn nữa, giá dầu thô giảm tuy có lợi cho nền kinh tế Nhật Bản (một trong những nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới) nhưng lại gây ra nhiều tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới từ đó ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu Nhật Bản.

+ Bên cạnh đó còn là lập trường sẵn sàng đảo ngược lộ trình nâng lãi suất của Fed – điều chắc chắn sẽ đe dọa tới triển vọng tỷ giá thấp hơn cho đồng Yên, khiến các nhà sản xuất Nhật Bản mất đi lợi thế cạnh tranh ít nhất là trước các đối thủ Mỹ (đối tác thương mại lớn thứ 2 của Nhật Bản).

+Yên Nhật đã tăng mạnh từ đầu năm tới nay, sau chính sách lãi suất âm của BOJ và kết quả trưng cầu Brexit mới đây của Anh. Những thay đổi này đã và đang tác động tiêu cực tới kinh tế và thị trường chứng khoán Nhật Bản cũng như áp lực nợ của nước này.

-Đứng trước tình cảnh này, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hồi đầu tháng 6 đã phải đưa ra một quyết định quan trọng về việc có nên thông qua kế hoạch tăng thuế tiêu dùng từ mức 8% lên 10% vốn đã được lên kế hoạch từ trước hay không. Ông Abe đã cam kết không lùi lại lộ trình nhưng cuối cùng đã dừng kế hoạch tăng thuế này trong ít nhất 2 năm nữa. Mục tiêu ban đầu là để bù đắp ngân sách chính phủ hàng năm, lấp bớt khoảng trống thâm hụt hay chi trả một phần nợ công chính phủ nhưng trong bối cảnh hiện nay tăng thuế tiêu dùng sẽ làm sụt giảm tiêu dùng trong nền kinh tế Nhật và còn đem lại nhiều rủi ro hơn so với những rủi ro từ thâm hụt ngân sách.

-Kể từ khi ông Abe tung ra kế hoạch tái thiết kinh tế 3 điểm (còn gọi là Abenomics) vào năm 2011, thu ngân sách của chính phủ Nhật đã tăng được khoảng 12 nghìn tỷ Yên (tương đương 115 tỷ USD). Thị trường lao động hiện nay cũng đang ở tình trạng tốt nhất trong nhiều năm qua, với tỷ lệ thất nghiệp chỉ hơn 3% – thấp nhất trong 21 năm và tỷ lệ việc làm có sẵn trên số đơn xin việc tăng lên mức cao nhất kể từ 2006 lên mức 2,09 điểm (tức là người xin việc luôn có khả năng tìm được công việc khá nhanh).

-Duy chỉ có hoạt động tiêu dùng trong dân vẫn khá yếu mà một phần đó là do mức đãi ngộ của lao động Nhật không cải thiện nhiều. Do đó ông Abe hiểu rằng việc tăng thuế tiêu dùng, một mặt nào đó giúp giảm áp lực nợ công nhưng nó sẽ khiến hiệu quả của chính sách Abenomics bị suy giảm đáng kể.

-Việc công bố quyết định trì hoãn tăng thuế tiêu thụ của ông Abe đã nhận được những phản ứng tích cực của thị trường. Nhà đầu tư đẩy giá các loại trái phiếu chính phủ Nhật tăng lên đáng kể vì họ cho rằng tính rủi ro của những loại trái phiếu này đã giảm đi đáng kể sau quyết định hoãn tăng thuế. Có vẻ cũng như Thủ tướng Abe, thị trường đã nhận ra sự cần thiết phải cân bằng giữa sự cấp thiết của giảm nợ công với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

CASE STUDY N0.923:DOANH NGHIỆP LÀ GÌ?LẤY ANH & MỸ LÀM VÍ DỤ

1-Hai nước này phân doanh nghiệp làm thành 2 loại hình:

+ Doanh nghiệp có tuyển dụng (Anh dùng : “employing businesses”; Mỹ dùng:” employer businesses”) và

+ Doanh nghiệp không tuyển dụng (Anh dùng : “non-employing businesses”; Mỹ dùng: “non -employer businesses”).

+Số liệu chính thức của Anh cho biết vào thời điểm đầu năm 2015, nước Anh có 5,4 triệu doanh nghiệp tư nhân và mỗi năm tăng chừng 150.000 doanh nghiệp. Dân số nước Anh chừng 65 triệu người – như vậy cứ khoảng 12 người dân thì có 1 doanh nghiệp.

+Cũng số liệu chính thức ở Mỹ cho thấy vào năm 2012, nước Mỹ có 28,7 triệu doanh nghiệp tư nhân so với dân số chừng 315 triệu người. Như vậy tỷ lệ số doanh nghiệp so với dân số là vào khoảng 11.

+Ở Anh trong tổng số 5,4 triệu doanh nghiệp nói trên, đến 4,1 triệu là loại hình doanh nghiệp không tuyển dụng ai khác ngoài chính chủ nó (76%). Ở Mỹ, trong tổng số 28,7 triệu doanh nghiệp, cũng có đến 23 triệu là loại doanh nghiệp một chủ – không tuyển ai khác (80%).

2-Doanh nghiệp không tuyển dụng là ai?

+Họ là những người tự kinh doanh, tự làm chủ ví dụ như môi giới bất động sản, dạy thêm, bán lẻ, chăm sóc người già… Theo định nghĩa chính thức, họ không có nhân viên được trả lương (như vậy có vợ chồng hay con cái phụ một tay thì vẫn xếp vào loại hình này), tạo doanh thu ít nhất 1.000 đô-la mỗi năm và chịu thuế thu nhập liên bang.

+Số lượng thì khổng lồ nhưng tác động lên nền kinh tế thì không đáng kể – toàn bộ 23 triệu doanh nghiệp không tuyển dụng này ở Mỹ chỉ tạo ra 4% tổng doanh thu so với  5,73 triệu doanh nghiệp lại chiếm đến 96% tổng doanh thu.

3-Còn xứ ta ?

+ Nếu lấy số liệu thống kê chính thức thì tỷ lệ doanh nghiệp trên dân số của Việt Nam còn rất thấp. Đầu năm 2012, cả nước có gần 342.000 doanh nghiệp đang tồn tại, so với dân số chừng 88,7 triệu người. Như vậy cần đến 260 người dân thì Việt Nam mới có 1 doanh nghiệp – một tỷ lệ rất thấp so với 12 dân ở Anh hay 11 dân ở Mỹ.

+ Thế nhưng khái niệm doanh nghiệp ở Việt Nam không bao gồm những “doanh nghiệp không tuyển dụng” như ở Mỹ hay ở Anh – họ được xếp vào diện hộ kinh doanh cá thể.

+Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì năm 2012, bên cạnh 342.000 doanh nghiệp như đã nói ở trên thì còn có 4,63 triệu hộ kinh doanh cá thể. Cộng hai loại hình này lại, chúng ta có chừng 5 triệu “doanh nghiệp” (hiểu theo nghĩa dùng ở Mỹ hay ở Anh).

Ngay lập tức tỷ lệ số doanh nghiệp trên dân số tăng vọt – chỉ cần 17,7 người dân là đã có 1 “doanh nghiệp” rồi.

+Tính chi li hơn nữa thì khái niệm “hộ kinh doanh cá thể” cũng chưa bao quát những người tự kinh doanh, tự làm chủ một hoạt động kinh tế nào đó mà ở nước khác có thể xếp vào loại hình “doanh nghiệp không tuyển dụng”.

-Đó có thể là những người thầy đã về hưu giờ đi dạy thêm, những người giúp việc nhà, nghệ sĩ tự do…

-Cộng hết vào, kể cả các hoạt động kinh tế trong khu vực phi chính thức thì tỷ lệ doanh nghiệp trên dân số ở nước ta cũng không khác gì lắm với các nước, nếu không muốn nói là sôi động hơn.

KL:

1-Như vậy chuyện tăng số lượng doanh nghiệp lên trong những năm tới là chuyện hoàn toàn có thể làm được về mặt cơ học chỉ bằng cách đổi tên cho các hộ kinh doanh cá thể chuyển lên thành doanh nghiệp tư nhân chẳng hạn.

2-Vấn đề của mọi vấn đề là: Khối “dân doanh” (Xét theo hở hữu ) tại xứ ta có thể lớn được không khi họ phải đương đầu với 3 đối thủ này:

(i)                       Chính phủ :Cạnh tranh trên thị trường vốn;

(ii)                   Doanh nghiệp Nhà nước;

(iii)               Doanh nghiệp FDI;

http://tamnhin.net/muc-tieu-500000-doanh-nghiep-duoc-khong-121887.html

 

Mục tiêu 500.000 doanh nghiệp, được không?

 

PS:THÊM ½ TRIỆU …”LI TI” ĐỂ LÀM GÌ???

http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20160704/doanh-nghiep-viet-ngay-cang-li-ti/1130905.html

 

Doanh nghiệp Việt ngày càng li ti

CASE STUDY N0.922 :TÍNH THẤT NGHIỆP THEO CÁCH CỦA HOA KỲ

1-Ngày thứ 6 đầu tiên của mỗi tháng đều mở ra 1 chương mới trong quá trình theo dõi sức khỏe nền kinh tế của chính phủ Mỹ.

+ Đó chính là ngày mà bản báo cáo mô tả thị trường lao động trong tháng trước đó được công bố.

+ Giống như nhiều báo cáo khác, bản báo cáo này đưa ra một loạt con số mà từ đó dẫn đến nhiều phản ứng chính sách khác nhau.

+ Thị trường cổ phiếu và trái phiếu cũng phản ứng mạnh mẽ với báo cáo này.

+ Các thống đốc NHTW dựa vào nó để hoạch định chính sách.

+ Thậm chí, báo cáo này còn có thể tạo nên các cuộc tranh luận chính trị gay gắt.

2- Các chỉ số được xây dựng như thế nào?

 

+ Có hai chỉ số thu hút được nhiều sự chú ý nhất khi Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo hàng tháng: tỷ lệ thất nghiệp và số việc làm mới được tạo ra (hoặc số việc làm bị mất đi).

+ Tỷ lệ thất nghiệp được tính toán bằng cách khảo sát bộ phận dân số trên 16 tuổi, không bao gồm những người đang phục vụ trong quân đội, trong tù hoặc đang điều trị tại các bệnh viện tâm thần. Họ sẽ trả lời câu hỏi trong 4 tuần vừa qua bạn có việc làm không hoặc nếu không có thì có đang đi tìm việc hay không. Những người đã ngừng tìm kiếm việc làm – bất kể vì họ đã nghỉ hữu hay vì đã từ bỏ hi vọng sẽ tìm được một công việc – được coi là đang nằm ngoài lực lượng lao động.

+ Dữ liệu đến từ trung tâm khảo sát dân số (CPS) với khảo sát được thực hiện trên khoảng 60.000 hộ gia đình mỗi tháng. Ngoài tỷ lệ thất nghiệp, CPS còn là nguồn cung cấp các dữ liệu về số người làm việc toàn thời gian và bán thời gian cũng như thông tin về tuổi, giới tính và cấu trúc chủng tộc của lực lượng lao động.

+ Trong khi khảo sát các hộ gia đình đếm số lượng người đang làm việc, con số việc làm mới được tạo ra hoặc mất đi mỗi tháng lại đến từ chương trình thống kê lao động (CES). Cơ quan này thực hiện khảo sát trên 145.000 công ty tư nhân và cơ quan chính phủ, đồng thời sử dụng các mô hình để ước tính có bao nhiêu doanh nghiệp mới thành lập và phá sản mỗi tháng. CES sẽ đưa ra con số về số lượng lao động của mỗi ngành, họ được trả lương bao nhiêu và làm việc trong bao nhiêu giờ.

+ Các chi tiết trong bản khảo sát hộ gia đình giúp hiểu về sự thay đổi tính chất của lực lượng lao động (tuổi, giới tích, chủng tộc và trình độ), trong khi các chi tiết mà CES cung cấp phác họa bức tranh lao động của các ngành, thể hiện ngành nào đang mở rộng và ngành nào đang thu hẹp.

3- Hiểu về cách mà mỗi con số được tạo ra giúp lý giải phần nào hiện tượng này:

+ Số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 1 thập kỷ.

+ Thậm chí số người bị sa thải cũng thấp hơn mức đỉnh của thời kỳ nền kinh tế bùng nổ trong năm 2006.

+ Với các công ty tư nhân tuyển tăng số nhân công một cách chậm rãi và chắc chắn trong suốt 4 năm vừa qua, số việc làm mới đã dần hồi phục từ sự suy giảm trong thời kỳ cuối năm 2013 và đầu 2014.

+ Tỷ lệ người lao động chọn công việc bán thời gian thay vì toàn thời gian vì những lý do kinh tế cũng dần dần giảm xuống.

+ Tuy nhiên, đối lập với những con số tích cực này là một vài chỉ số gây hoang mang.

+ Tỷ lệ người tham gia vào thị trường lao động hoặc tìm kiếm việc làm đang ở quanh mức thấp nhất kể từ năm 1978.

+ Con số này đang bao trùm lên nhận định của Cục dự trữ liên bang (Fed) về tiến triển của thị trường lao động.

+ Mặc dù số người về hưu tăng lên là một nguyên nhân, Chủ tịch Fed Janet Yellen đã cho rằng các công nhân bị nản trí vì không tìm được việc có thể đã chọn cách rời khỏi lực lượng lao động và đây là điều đáng lo ngại. Thêm vào đó, lương tăng rất chậm.

Picture 2

Diễn biến của thị trường lao động Mỹ qua các chỉ số

4-Tranh cãi:

+ Nhiều chuyên gia cho rằng Bộ Lao động Mỹ đang đi sai hướng. Tổng số người đang làm việc chỉ thay đổi khoảng 0,15% mỗi tháng, trong khi số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu thường được điều chỉnh tăng hoặc giảm khoảng 50%.  

+ Các thuật toán điều chỉnh theo mùa vụ cũng có thể mắc nhiều sai sót. Đồng thời giới phân tích cũng bất đồng về con số việc làm cần thiết để nền kinh tế đạt đến và duy trì trạng thái toàn dụng lao động. Các ước tính đều dựa trên những giả định về tăng trưởng dân số, tốc độ già hóa và nhập cư.

+ Quan trọng hơn, những con số của báo cáo việc làm đem đến những hệ quả trong đời sống thực bởi chúng ảnh hưởng đến quyết định nới lỏng hoặc thắt chặt chính sách tiền tệ của Fed.