TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0.688: VPB : Mối nguy nợ xấu

1-Trở lại với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà NHNN đã phân bổ cho VPBank, tại sao chỉ là 18% mà không phải cao hơn như SeABank (35%), TPBank (35%), Techcombank (30%), NamABank (25%), BaoVietBank (36%)…(?)

2-Nguyên căn chính có lẽ nằm ở câu chuyện nợ xấu khi mà tăng trưởng nóng luôn là con dao hai lưỡi, bài học của giai đoạn 2009 – 2012 vẫn còn nóng hổi.

+ Theo đó, năm 2014, trong khi toàn hệ thống phải “nghẹt thở” cán đích 13% thì tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của VPBank lại cao đến ngỡ ngàng: 49,4%. Hay, 6 tháng đầu năm 2015, trong khi tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống chỉ là 6% thì như đã đề cập, con số tương ứng của VPBank lại lên tới 22,8%.

“Cỗ xe tín dụng” VPBank rõ ràng là đang chạy quá nhanh và nhanh thường gây ra nguy hiểm.

+ Tính đến ngày 30/6/2015, VPBank đang có tổng cộng 7.082 tỷ đồng nợ quá hạn (nợ nhóm 2 đến nhóm 5), chiếm 7,4% tổng dư nợ và tăng 71% so với đầu năm.

+Trong khi, tổng nợ xấu là 2.661 tỷ đồng, chiếm 2,76% tổng dư nợ, tăng 34% so với đầu năm. Đáng chú ý, nhóm nợ “xấu nhất” – nợ có khả năng mất vốn đã vọt gấp đôi lên mức 1.076 tỷ đồng chỉ sau 6 tháng.

+ Thêm vào đó là gần 4.842 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành – những khoản có bản chất là nợ xấu đã được “thay tên đổi họ”.

CASE STUDY N0.687: NGƯỜI GIÀU KHÁC NGƯỜI NGHÈO Ở CHỖ: BIẾT CHẠY TRƯỚC ĐÚNG LÚC: JIM CHANOS

1-Chanos là người đầu tiên phát hiện ra những lỗ hổng của tập đoàn năng lượng Enron cách đây 15 năm. Đặt cược rằng mình sẽ hưởng lợi khi cổ phiếu này lao dốc, Chanos đã bán khống cổ phiếu Enron. Vụ bán khống không chỉ giúp ông thu được số tiền khổng lồ mà còn giúp ông nổi tiếng.

2-Mùa thu năm 2009, Jim Chanos bắt đầu đặt ra những câu hỏi về kinh tế Trung Quốc:

+ Điều khơi dậy sự tò mò của Chanos là ông nhận ra rằng phần lớn các nhà sản xuất hàng hóa đã không bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trên thực tế, họ còn ghi nhận mức lợi nhuận lớn kể cả khi các ngành khác chật vật vì khủng hoảng.

+Trong quá trình đi tìm lý do giải thích cho sự kỳ lạ này, ông phát hiện ra một điểm quan trọng: Trung Quốc rất “khát” hàng hóa. Trung Quốc – nền kinh tế đã tránh được khủng hoảng – nhập khẩu tới 40% lượng đồng và 50% lượng quặng sắt xuất khẩu trên toàn thế giới. Các hàng hóa khác cũng tương tự.

+ Phát hiện này khiến Chanos đưa ra một lời cảnh báo táo bạo: Trung Quốc đang ở trong một bong bóng tín dụng không bền vững.

3-“Tôi sẽ không bao giờ quên một ngày năm 2009, khi một chuyên viên tư vấn bất động sản đưa cho tôi một bài thuyết trình và nói rằng Trung Quốc đang có tới 5,6 tỷ m2 bất động sản có tiềm năng phát triển rất lớn vì trong đó một nửa là bất động sản thương mại. Tôi nói chắc cậu ấy nhầm với 5,6 tỷ feet vuông (tương đương khoảng 560 triệu m2). Nhưng cậu ta quả quyết đó thực sự là 5,6 tỷ m2”, Chanos chia sẻ.

+ Đối với Chanos, đó chính là thời điểm “bóng đèn ý tưởng” bật sáng:  Nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển như vũ bão không chỉ nhờ những đầu tàu xuất khẩu mà còn bởi một bong bóng tài sản khổng lồ được thổi phồng bởi núi nợ.

+ Núi nợ ấy được khuyến khích bởi chính Chính phủ Trung Quốc trong khuôn khổ chiến dịch tăng đầu tư công vào cơ sở hạ tầng để thúc đẩy kinh tế phát triển.

+ Theo số liệu của McKinsey, nợ của Trung Quốc hiện đã lên đến 28 nghìn tỷ USD.

KL: Trường hợp của Chanos đem đến một bài học đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được: hãy chú ý lắng nghe những hoài nghi và những quan điểm đối lập thiểu số.

CASE STUDY N0.686: Thuyết Con nhím (Hedgehog Concept)

PS: BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG LÀ: BIẾT DÙNG CÁI HỮU HẠN CHẾ NGỰ CÁI VÔ HẠN!

1-Triết gia Isaiah Berlin lấy câu chuyện ngụ ngôn này và đưa vào đời thực qua một bài luận của ông, ra mắt năm 1953, với tựa đề “The Hedgehog and the Fox” (Tạm dịch: Cáo và Nhím), theo đó Berlin phân loại con người thành hai nhóm: cáo và nhím.

+Thuyết Con nhím ra đời dựa trên một câu chuyện ngụ ngôn của Hy Lạp cổ đại với ý nhấn mạnh là: “Con cáo ma mãnh biết rất nhiều thứ, nhưng nhím lù đù thì chỉ thuộc nằm lòng một thứ thôi”.

+ Trong câu chuyện ngụ ngôn, cáo dùng rất nhiều chiến lược mưu mẹo để bắt lấy nhím:

– Nó biết rình rập, tấn công, lại chạy nhanh và thậm chí còn biết giả chết.

– Ấy thế mà, hết lần này đến lần khác, cáo thường bị đánh bại, thân mình cắm chi chít gai.

KL: Sau tất cả, cáo vẫn không bao giờ hiểu được chuyện nhím chỉ biết làm thành thục một hành động, đó chính là tự vệ.

2-Nếu có cơ hội lựa chọn, bạn sẽ làm cáo hay làm nhím?

Cáo xinh đẹp, khéo léo và thậm chí còn ma mãnh nữa. Do đó, hiển nhiên nhiều người sẽ lựa chọn con vật này; trong khi đó, nhím – một sinh vật có gai nhỏ thường sinh sống ở châu Âu, châu Á và châu Phi – thì hoàn toàn ngược lại: chúng vừa lề mề, không ồn ào và còn nhàm chán.

KL: Vậy rốt cuộc cáo và nhím thì liên quan gì đến sự thành công của một doanh nghiệp?

CASE STUDY N0.685: 51% vốn ngoại, CTCK trở thành nhà đầu tư nước ngoài

1-Theo quy định tại khoản 1, Điều 23, Luật Đầu tư, tổ chức kinh tế mà có NĐT nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên, hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh, thì được coi là NĐT nước ngoài và phải tuân thủ các quy định pháp luật về tỷ lệ sở hữu nước ngoài (room) khi tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam.

2-Khi trở thành tổ chức đầu tư nước ngoài, CTCK sẽ phải chịu các ràng buộc về: tự doanh, thanh toán, vay và cho vay đầu tư chứng khoán… theo hướng chặt hơn so với CTCK nội.

3- Theo phản ánh của một số CTCK, hiện họ chưa sẵn sàng đánh đổi những ràng buộc này để đi đến quyết định nới room.

4-Ở một khía cạnh có liên quan, hiện trên TTCK Việt Nam đã có 2 CTCK 100% vốn nước ngoài là CTCK Maybank Kim Eng và CTCK KIS Việt Nam, nhưng họ không phải đăng ký mã số giao dịch chứng khoán.

5-Khi Thông tư 123/2015/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 60/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/10 tới, hai công ty này cũng như những CTCK khác có NĐT nước ngoài sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên, sẽ phải đăng ký mã số giao dịch chứng khoán. Đây là việc lần đầu tiên các CTCK sẽ phải thực hiện.

CASE STUDY N0.684: Phá sản, vũ khí bí mật của kinh tế Mỹ

“Ở đất nước này, chúng ta thực sự ‘giỏi’ về phá sản, và đây có lẽ đúng là một trong những vũ khí bí mật của nền kinh tế chúng ta”, trang này viết.

Trên thực tế, Planet Money chỉ ra rằng, Chương 11 hiệu quả về mặt kinh tế đến nỗi các nước châu Âu đã áp dụng quy định tương tự trong những năm gần đây.

Nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 đồng nghĩa với việc một doanh nghiệp lẽ ra bị mắc kẹt vì nợ nần có thể trả cho chủ nợ số tiền ít hơn khoản nợ ban đầu, trong một khoảng thời gian dài hơn. Về phần mình, các chủ nợ có cơ hội tốt hơn đòi được nợ, hoặc có thể sẽ nhận được số tiền lớn hơn trong trường hợp công ty bị thanh lý. Nói cách khác, Chương 11 giúp đôi bên cùng có lợi.

CASE STUDY N0.683: Bãi rác Đa Phước và hệ quả của ông chủ David Dương

Không ít doanh nghiệp nhân danh Việt kiều mang công nghệ hiện đại, có yếu tố nước ngoài về đầu tư, để được hưởng những chế độ đãi ngộ, hỗ trợ kinh doanh theo chính sách của nhà nước. Nhưng mặt khác chúng ta lại để rất nhiều sơ hở, ký những hợp đồng không được chặt chẽ, những yêu sách đặc biệt mà chất lượng dịch vụ thì không thực sự như mong đợi.

CASE STUDY N0.682: THE US STILL RUNS THE WORLD/ Mỹ vẫn tiếp tục lãnh đạo thế giới

1-Trung Quốc, như một siêu cường thế giới được xem xét một cách nghiêm túc nhất trong tác phẩm thuộc hàng sest-seller Eclipse: Living in the Shadow of China’s Economic Dominance (tạm dịch: Nhật thực: Sống dưới cái bóng của nền kinh tế Trung Quốc) của Arvind Subramanian, xuất bản năm 2011. (Tác giả hiện là cố vấn trưởng về kinh tế ở Bộ Tài chính Ấn Độ, và tôi là đồng nghiệp và đôi khi các đồng tác giả với ông ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Viện Kinh tế Quốc tế Peterson.)

2-Simon Johnson, một cựu kinh tế trưởng của IMF, giáo sư tại MIT Sloan, cộng tác viên cao cấp ở Peterson Institute for International Economics, và đồng sáng lập blog The Baseline Scenario hàng đầu về kinh tế học. Ông là đồng tác giả, cùng James Kwak, cuốn White House Burning: The Founding Fathers, Our National Debt, and Why It Matters to You. |

 Simon Johnson, a former chief economist of the IMF, is a professor at MIT Sloan, a senior fellow at the Peterson Institute for International Economics, and co-founder of a leading economics blog, The Baseline Scenario. He is the co-author, with James Kwak, of White House Burning: The Founding Fathers, Our National Debt, and Why It Matters to You.

Simon Johnson
Phạm Nguyên Trường dịch

CASE STUDY N0. 681: KIỀU HỐI: 2 MẶT CỦA ĐỒNG TIỀN GỬI VỀ NƯỚC.

1-Cũng là người Việt di cư, vượt biên đến Mỹ đầu thập niên 1980, nghiên cứu này có ý nghĩa sâu xa cho chính bản thân tác giả.

“Lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó ở tiểu bang Mississippi, tôi từng chứng kiến cảnh cha mẹ tôi gởi tiền về Việt Nam để rồi người nhà trong nước lâm vào cảnh phá sản, mất cả chì lẫn chài,” giáo sư Hưng thuật chuyện.

2-Một trong những điểm đáng chú ý, ông nhận định rằng rất nhiều mối quan hệ gia đình của người Việt đã bị “tài chánh hóa,” nghĩa là nền tảng tình cảm gia đình được xây dựng dựa trên tiền bạc

Gởi tiền về cho thân nhân ở Việt Nam là cách biểu lộ tình thương.

3-Rất đông gia đình gốc Việt ở nước ngoài gởi tiền cho thân nhân với giá quá đắt, bất chấp sự bấp bênh tài chánh của họ ở ngay tại đây.

+ Những gia đình này làm chỉ vừa đủ “trên mức nghèo,” theo ấn định của chính phủ là $23,000/năm cho gia đình bốn người, hoặc $14,000/năm cho một người.

+Thế mà, vì gởi tiền về Việt Nam, họ phải chịu sống cảnh nghèo nàn, túng thiếu.

+ Họ tự đặt mình vào một tầng lớp mà các nhà xã hội học gọi là “the missing class,” một giai cấp bị lãng quên, trong các cuộc thảo luận về an sinh xã hôi hoặc cơ hội tìm việc làm, giáo sư Hưng ghi nhận.

“Họ tiện tặn, không dám tiêu xài để gởi tiền trên mức họ làm ra cho nên trong khi họ có thể trợ giúp cho thân nhân ở Việt Nam có được cuộc sống thoải mái, bao nhiêu người đã mang công, mắc nợ.”