TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0.657: Tập đoàn nhà nước nào vay nợ nhiều nhất?

1-Tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Than – Khoáng sản, Hàng hải, Sông Đà… là những cái tên dẫn đầu trong danh sách vay nợ tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.

2-Mặc dù các văn bản quy định hiện hành yêu cầu không có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và các DN khác, song trên thực tế khối DN này lại đang được “ưu ái” rất nhiều.

+Dẫn đến DN tư nhân khó gia nhập được vào các ngành, lĩnh vực mà DNNN đang độc quyền, thống lĩnh hoặc chi phối trên thực tế: Bao gồm lĩnh vực như điện lực, viễn thông, xăng dầu, hóa chất, khai thác khoáng sản và tài nguyên, tài chính, tín dụng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ công thiết yếu…

3-DNNN hoạt động phụ thuộc phần lớn vào vốn vay:

+Tính đến năm 2014 còn 796 DNNN, với tổng tài sản là 2.869.120 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 1.145.564 tỷ đồng. Báo cáo của Chính phủ cho biết, tổng nợ phải trả năm 2013 của DNNN là 1.723.556 tỷ đồng (tương đương 48% GDP).

+Trong đó, riêng 108 Tập đoàn, Tổng công ty là 1.512.915 tỷ đồng (42% GDP). Đặc biệt, báo cáo cũng nhấn mạnh các tập đoàn và tổng công ty đang hoạt động phụ thuộc phần lớn vào nguồn vốn vay, khi tổng số vay nợ trong nước chiếm 43,23% tổng nợ phải trả.

+ Các ngân hàng thương mại vẫn cấp nhiều tín dụng cho DNNN nhất. Mặc dù trong cơ cấu dư nợ cho vay của ngân hàng thương mại, tỷ trọng của các DNNN đã giảm, nhưng vẫn ở mức lớn:Theo đó, tổng nợ vay của các DNNN tính đến ngày 31/12/2013 của các tập đoàn, tổng công ty từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là 489.260 tỷ đồng.

+Cụ thể, vốn vay tập trung vào một số tập đoàn, tổng công ty như:

– Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là 163.063 tỷ đồng;

– Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là 78.583 tỷ đồng;

– Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) là 49.566 tỷ đồng;

– Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (47.627 tỷ đồng);

– Tổng công ty Sông Đà (20.357 tỷ đồng);

-Tổng công ty Xi măng Việt Nam (16.483 tỷ đồng);…

4-Có “bảo lãnh” của Nhà nước:

+Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (Ciem), bên cạnh các DN hoạt động hiệu quả, thì việc cấp tín dụng với khối lượng lớn cho DNNN cho thấy các ngân hàng kỳ vọng về sự an toàn.

+Tức là các ngân hàng đều cho rằng Nhà nước sẽ đảm nhận trách nhiệm đối với các khoản nợ khi DNNN gặp khó khăn hoặc rơi vào tình trạng có thể giải thể hoặc phá sản.

+Trong khi đó, Nhà nước cũng có nhiều động thái để “ủng hộ”, kể cả chỉ đạo các ngân hàng cho DNNN vay vốn: Riêng trong năm 2014, đã có 20 văn bản của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chấp thuận hoặc đồng ý cho phép ngân hàng thương mại được cấp tín dụng vượt giới hạn cho các dự án của các DNNN.

CASE STUDY N0.656: THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA: TỪ BÙNG NỔ ĐẾN BÁN THÁO

1-Giá dầu giảm sâu thêm đầu tuần này và giá hàng hóa nguyên liệu giảm thấp nhất 15 năm qua do những lo ngại về kinh tế Trung Quốc, vốn là động lực của tăng trưởng nhu cầu trong suốt một thập niên qua.

2- Truyền thông quốc tế đồng loạt gọi đây là những ngày “bán tháo”.

+Năm 2004, nhiều nước rộ lên những vụ trộm nắp cống mà Trung Quốc được cho là nơi “dẫn đầu thế giới”: chỉ trong hai tháng, Thượng Hải  diễn ra hơn 1.500 vụ, khiến ít nhất tám người chết do tai nạn vì mất nắp cống.

Chuyện được nhiều tờ báo kinh tế thế giới lúc đó đưa tin đậm, không phải chỉ vì vấn đề trộm cắp, không hẳn là chuyện an toàn công cộng, mà vì đó là dấu hiệu cho thấy nhu cầu cho kim loại và kim loại tái chế đã tăng cao khẩn cấp đến mức xảy ra tình trạng đó.

+Chỉ mới một thập niên kể từ thời điểm báo hiệu một kỷ nguyên mới cho thị trường hàng hóa nguyên liệu do nhu cầu từ Trung Quốc, gọi là “bùng nổ khai thác tài nguyên” khiến thế giới thay đổi chóng mặt;

+ Châu Phi tràn ngập các kỹ sư Trung Quốc, Úc phải bầu một bộ trưởng biết nói tiếng Hoa, các thị trường mới nổi từ Argentina cho đến Zambia tận hưởng giá đất nông nghiệp và đất các khu vực mỏ tăng cao.

+ Đô la Mỹ – đồng tiền dùng để tính giá hàng nguyên liệu – yếu càng đẩy mạnh cơn bùng nổ khai thác mỏ này.

CASE STUDY N0.655: NHỮNG “THƯỚC ĐO CHÍNH” CỦA SỰ TỤT HẬU CỦA VIỆT NAM

PS: NHỮNG SỐ LIỆU CHÍNH THỐNG TỰ NÓI, KHÔNG CẦN BÌNH LUẬN!

Một báo cáo tổng hợp của Tổng cục Thống kê đã phác thảo tình trạng lạc hậu, tụt hậu của Việt Nam so với hàng loạt các quốc gia trong khu vực.

1-Theo đó, từ năm 2008 Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nhưng khoảng cách về GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực còn lớn và có nguy cơ bị nới rộng.

+ GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.052 đô la Mỹ, gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ tương đương mức GDP bình quân của Malaysia năm 1988, Thái Lan năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010, và Hàn Quốc năm 1982.

+ GDP bình quân đầu người năm 2014 của Việt Nam bằng 3/5 của Indonesia; 2/5 của Thái Lan; 1/5 của Malaysia; 1/14 của Hàn Quốc và bằng 1/27 mức GDP bình quân của Singapore. 

+ Xét trên giác độ GDP bình quân đầu người, Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm; sau Malaysia 25 năm; Thái Lan 20 năm; sau Indonesia và Philippines 5-7 năm. 

2-Trong khi đó, về cân đối tài khóa, tình trạng bội chi ngân sách và nợ công đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

+Tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP xếp thứ 9 trong khu vực ASEAN (năm 2001) đã tăng lên thứ 5 (năm 2013).

3-Thị trường tài chính của Việt Nam phát triển tương đối thấp và còn nhiều bất ổn so với một số nước trong khu vực. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu của Việt Nam năm 2012 là 32,9 tỉ đô la Mỹ (Malaysia là 476,3 tỉ đô la Mỹ, Singapore 414,1 tỉ đô la Mỹ, Indonesia 396,8 tỉ đô la Mỹ, Thái Lan 383 tỉ đô la Mỹ, Philippines 264,1 tỉ đô la Mỹ).

4-Việt Nam đã huy động được nguồn vốn lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng hiệu quả đầu tư còn thấp.

Hệ số ICOR của Việt Nam 2011-2013 (6,99), cao hơn của Indonesia (4,64), Lào (2,59), Malaysia (5,40), Philippines (4,10), Trung Quốc (6,40), nghĩa là đầu tư của Việt Nam kém hiệu quả nhất so với 5-Về xếp hạng môi trường kinh doanh 2015 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện ở vị trí thứ 78/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. So với các nước ASEAN, Việt Nam đứng sau Singapore (vị trí số 1), Malaysia (18) và Thái Lan (26); Việt Nam xếp trên Philippines (95), Bruney (101), Indonesia (114), Campuchia (135), Lào (148) và Myanmar (177).

5-Việt Nam có lực lực lượng lao động dồi dào nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông nghiệp, chiếm 46,3%, tương đương với tỷ lệ của Thái Lan vào năm 1995, Philippines và Indonesia đầu thập kỷ 90, gấp 2,4 lần Malaysia và 4 lần Hàn Quốc năm 1995. Tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp năm 2012 của Malaysia là 12,6%; Philippines 32,2%; Indonesia 35,1%; và Thái Lan 36,9%.

+Theo vị thế việc làm, lao động Việt Nam chủ yếu làm các công việc gia đình hoặc tự làm (có thu nhập thấp, bấp bênh, không ổn định), chiếm tới 62,7% tổng việc làm 2013.

+Chất lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, hiệu quả sử dụng lao động qua đào tạo chưa cao. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2014 của Việt Nam là 18,2%.

+Tỷ lệ biết chữ của Việt Nam đứng sau Philippines, Thái Lan. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 95%, thấp hơn Thái Lan và Indonesia (98%);

+Theo đánh giá của WB về kinh tế tri thức: Chỉ số giáo dục của Việt Nam năm 2012 là 2,99 (thấp hơn bình quân thế giới là 4,35; bình quân của khu vực 5,26), xếp thứ 113, thấp hơn so với Hàn Quốc thứ 4; Malaysia thứ 75; Philippines thứ 85; Thái Lan thứ 93 và Indonesia thứ 102.

CASE STUDY N0.654: Tụt hậu kinh tế

PS: DIỄN ĐẠT LẠI CHO CHUẨN:

1-“TỤT HẬU” CHỈ ĐO BẰNG GDP/ĐẦU NGƯỜI ĐÃ CHÍNH XÁC CHƯA?

2-“TỤT HẬU” LÀ KHÁI NIỆM SO SÁNH: VẬY CÓ NÊN SO SÁNH VIỆT NAM VỚI NHỮNG NƯỚC KHÔNG CÓ NHỮNG ĐIỀU KIỆN “CỨNG & MỀM” TƯƠNG TỰ VỚI VIỆT NAM?

 3-VIỆT NAM ĐÃ TỤT HẬU CHỨ KHÔNG CÒN CHỈ LÀ “NGUY CƠ”;

 4-“ TỤT HẬU XA HƠN NỮA “ MỚI LÀ NGUY CƠ?

 5- “CĂN” DẪN ĐẾN TỤT HẬU AND/OR “ TỤT HẬU XA HƠN NỮA “ LÀ GÌ?

 6-CÓ NHẤT THIẾT PHẢI ĐUỔI KỊP AND/OR VƯỢT (!?) CÁC NƯỚC CÓ ĐIỀU KIỆN TƯƠNG TỰ VỚI VIỆT NAM?

 7-“TỤT HẬU” AND/OR “ TỤT HẬU XA HƠN NỮA “CÓ THỂ GÂY RA NHỮNG HỆ LỤY GÌ?

1-Trước kia, nước ta đã tự hào về mức tăng trưởng GDP cao.

2- Nhưng từ năm 2008 đến nay, mức tăng trưởng chỉ xoay quanh mức 5%-6%

3- Với mức tăng trưởng này quy cơ tụt hậu là rất lớn. Cụ thể:

+ Nếu chỉ đạt mức 5%/năm, thì năm 2035, kinh tế nước ta mới bằng 75% của Thái Lan hiện nay; bằng 30% của Trung Quốc bây giờ. Còn nếu đạt mức tăng tưởng 7% trở lên, thì ta mới đuổi kịp họ vào năm 2035… + Nhưng, họ cũng chạy, chứ không đứng yên đợi ta;

4-Tình hình tài chính, tiền tệ cũng rất đáng lo ngại:

+ Trong hệ thống ngân hàng, nợ xấu cũng đang ở mức cao: theo báo cáo thì đến cuối năm 2014 là 5,43% dư nợ, đã giảm so với mức 17% vào năm 2012 và cuối năm 2015 sẽ còn 3%.

+ Nhưng, nếu tính toán theo thông lệ quốc tế thì số này có thể lên đến 15%-16%.

+ Việc cơ cấu lại ngân hàng đang rất khó khăn.

CASE STUDY N0.652: Hãy để chúng chết đi…

PS: NÊN THAM KHẢO THÊM Ý KIẾN CỦA Ý KIẾN CỦA ÔNG RUDY GIULIANI, THỊ TRƯỞNG CỦA TP.NEW YORK NĂM 1994 TRONG CUỐN “ QUYỀN LỰC THAM VỌNG VINH QUANG”

1-Năm 1976, New York ngập chìm trong công nợ vì chánh phủ thành phố liên tục tiêu xài cho những chương trình gọi là “xã hội” và cho “phe nhóm”. Ngân sách gia tăng cùng hệ thống quan chức và sưu cao thuế nặng khiến các doanh gia bỏ chạy khỏi New York.

2-Đối diện với thảm họa phá sản, thành phố kêu gọi chánh phủ liên bang cứu trợ khẩn cấp:

+ Tổng thống Ford trả lời với một câu nói đi vào lịch sử, “Drop Dead” (Hãy chết đi).

+ Hơn 90% dân Mỹ hoan nghênh quyết định sáng suốt này.

CASE STUDY N0.650: “Hố đen” của Tập đoàn Tân Mai?

PS: Ngân hàng Vietinbank, Vietcombank, Agribank, BIDV và Ngân hàng Phát triển Việt Nam là chủ nợ của Tập đoàn Tân Mai. CŨNG MẤY NH NÀY ĐƯỢC “TÍN NHIỆM” GIAO PHÓ QUẢN LÝ/ĐIỀU HÀNH “NH O ĐỒNG” NHƯ OCEANBANK, DOANGABANK, GPBANK, ETC…???

1-Năm 2013 chi phí lãi vay lớn gần bằng doanh thu bán hàng của cả tập đoàn và là năm thứ 4 liên tiếp Tân Mai lỗ thuần trong kinh doanh.

2-79% dư nợ vay của Tập đoàn đến từ Vietinbank:

+Năm 2008, CTCP Giấy Tân Mai và CTCP Giấy Đồng Nai là 2 ngôi sao sáng trong ngành sản xuất bột và giấy của Việt Nam. Đến cuối năm 2008, lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu của Giấy Tân Mai đạt 1.658 đồng/CP và Giấy Đồng Nai đạt 1.942 đồng/CP.

+Tuy nhiên, sau 5 năm hợp nhất, Tập đoàn Tân Mai được “điểm danh” trở lại vì là “đối tượng được theo dõi, kiểm soát tín dụng” của Ngân hàng Nhà nước với số dư nợ đến ngày 31/12/2012 tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) lên đến 3.665 tỷ đồng.

+Báo cáo tài chính năm 2013 cho thấy, tổng dư nợ vay ngắn và dài hạn của Tập đoàn Tân Mai tại ngày 31/12/2013 gần 4.813 tỷ đồng, trong đó vay ngân hàng là gần 4.800 tỷ đồng.

+ Ngân hàng Vietinbank, Vietcombank, Agribank, BIDV và Ngân hàng Phát triển Việt Nam là chủ nợ của Tập đoàn Tân Mai.

+ Chỉ tính riêng Vietinbank, dư nợ cho vay của ngân hàng này tại Tân Mai đến cuối 2013 lên đến 3.768 tỷ đồng, chiếm 79% tổng dư nợ vay của Tập đoàn Tân Mai. Dường như Vietinbank đã rất “tín nhiệm” Tập đoàn Tân Mai bởi ngay khoản cho vay đầu tư xây dựng nhà máy Tân Mai Miền Trung gần 2.481 tỷ đồng có thời hạn 12 năm nhưng tài sản đảm bảo cho hợp đồng vay này là “thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai”.

CASE STUDY N0.649: Mua ngân hàng 0 đồng: Nguồn lực ở đâu và như thế nào?

1-Lại thêm lỗ thủng bục ra từ hệ thống ngân hàng với việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa Ngân hàng Thương mại cổ phần (NHTMCP) Đông Á vào danh sách kiểm soát đặc biệt. Quyết định này công bố khá nhanh sau khi Tổng giám đốc Đông Á là Trần Phương Bình phát đi thông điệp: “Nếu bị mua 0 đồng, tôi sẽ tuyên bố phá sản”.

Trước Đông Á, đã có ba NHTMCP là Ngân hàng Xây dựng, Đại Dương và Dầu khí Toàn cầu được cho là phá sản và bị NHNN mua lại với giá 0 đồng.

2- Trao đổi với Người Đô Thị, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, bình luận:

+ “Mua 0 đồng nghĩa là NHNN không bỏ ra đồng nào để mua, nhưng không có nghĩa NHNN không tốn chi phí. Trừ phần vốn chủ sở hữu là 0 đồng, toàn bộ tài sản hiện hữu của ngân hàng bị mua trở thành tài sản của NHNN.

+ Khối tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ nợ của NHNN với những người gửi tiền và chủ nợ của ngân hàng bị mua lại.

+ Trục trặc của những ngân hàng bị mua lại là vốn chủ sở hữu bị âm, tài sản có thấp hơn tài sản nợ khi định giá thị trường. Giữ vai trò là chủ mới, NHNN chịu trách nhiệm về phần chênh lệch này

+ Chưa dừng lại ở đó, NHNN phải bỏ ra nguồn lực cực lớn để tái cơ cấu ngân hàng bị mua lại:

– Một là khoản tiền 3.000 tỉ đồng để đảm bảo vốn pháp định theo Nghị định 141 do Chính phủ ban hành năm 2006 về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.

– Hai là khoản tiền đảm bảo 9% hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo Thông tư 36 do NHNN ban hành năm 2014.

 -Ba, NHNN phải trang trải chi phí hoạt động cũng như xử lý các tài sản nợ dưới chuẩn của ngân hàng bị mua lại”.