TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0: 181: “BẦY THÚ ĐIỆN TỬ”: Tiền tháo chạy khỏi Trung Quốc với tốc độ kỷ lục

1-Đà tăng nóng của thị trường chứng khoán Trung Quốc thời gian gần đây không thể ngăn đà bốc hơi của dòng tiền:

-Dòng tiền đang rút khỏi Trung Quốc với tốc độ kỷ lục làm dấy lên lo ngại bất ổn tài chính và gây khó cho ngân hàng trung ương nước này khi tìm cách vực dậy nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại.

Thực tế, dòng tiền rút khỏi Trung Quốc từ hơn 1 năm qua. Tổng tài sản nước ngoài do Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) nắm giữ cũng giảm quý thứ 7 liên tiếp – đánh dấu chuỗi giảm dài nhất từ trước đến nay.

Theo số liệu vừa công bố, cán cân thanh toán quý I của Trung Quốc thâm hụt 80 tỷ USD, mức thâm hụt lớn nhất từ trước đến nay.

2-Dòng tiền tháo chạy cho thấy lo ngại của nhà đầu tư về sức khỏe của nền kinh tế Trung Quốc, nhưng mặt khác, đây cũng là hệ quả của việc đồng USD tăng giá mạnh và xu hướng giảm lãi suất ở Trung Quốc.

CASE STUDY N0: 179: TTCK VN: “CASINO” OR KÊNH HUY ĐỘNG VỐN TRUNG & DÀI HẠN?

1-Đánh giá về vai trò của TTCK vốn đối với nền kinh tế, TS. Trần Du Lịch, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TP. HCM cho rằng, nền kinh tế muốn phát triển, cần phát triển 3 thị trường trụ cột, gồm thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ và thị trường tài chính, trong đó:

-Thị trường tài chính bao gồm thị trường ngân hàng (cung ứng vốn ngắn hạn), và

– TTCK (cung ứng vốn trung và dài hạn).

2-Tuy nhiên, theo TS. Lịch hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam:

-Phần lớn là vốn ngân hàng, chiếm tỷ lệ 65% tổng cung vốn vào nền kinh tế;

-Trong đó, vốn ngắn hạn chiếm tới 80% tổng vốn huy động;

-Lượng vốn ngân hàng đầu tư vào TTCK khá lớn, điều này dễ dẫn đến rủi ro bong bóng, tạo nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế

– Đó là chưa tính các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ – được phần lớn tổ chức tín dụng đầu tư, chiếm tới 90% là vốn tín dụng. Nhiều doanh nghiệp cần vốn nhưng phát hành cổ phiếu tăng vốn không thành công, thường chọn cách quay sang vay nợ ngân hàng hơn là phát hành chứng khoán nợ (trái phiếu).

3-Ông Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia nhận định, thị trường tài chính Việt Nam đang mất cân đối: “Một nền tài chính chủ yếu dựa vào ngân hàng đã yếu kém, lại chủ yếu là vốn ngắn hạn thì càng rủi ro hơn”, ông Ngoạn nói và khẳng định thêm, nếu Việt Nam không cải cách thị trường tài chính, nhất là thị trường vốn thì khó duy trì được tốc độ tăng trưởng 6-7%/năm. (FYI: Mà nếu có tăng trưởng 8-9%/năm thì cũng phải mất 40 năm nữa Việt Nam mới bằng Hàn Quốc hôm nay ,như BT Bùi Quang Vinh khẳng định!)

4-Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch SSI chia sẻ, muốn TTCK Việt Nam phát triển thì thị trường đó phải trở thành nơi giữ tiền của dân chúng: “Hiện nay, TTCK Việt Nam mới chỉ là một địa điểm để kiếm tiền, chứ không phải là nơi giữ tiền, khi nào TTCK trở thành nơi giữ tiền an toàn thì lúc ấy mới phát triển” (PS:Nói dễ hiểu hơn:TTCK VN hiện nay giống như casino, NĐT vào đó “đánh quá may rủi!Hihi…);

CASE STUDY N0: 178: TCTD vs TĂNG VỐN ĐIỀU LỆ: Vì sao kế hoạch tăng vốn một số ngân hàng bất thành nhiều năm?

1-Cùng với sự sụt giảm của chứng khoán, giá cổ phiếu ngân hàng chưa niêm yết không chỉ giảm mà còn đứng trước áp lực tái cơ cấu.

2- Vì thế, kế hoạch tăng vốn của nhiều nhà băng dù đã được ĐHCĐ thông qua nhiều năm nhưng vẫn khó được triển khai, kể cả với tăng vốn từ nguồn thặng dư để chia cổ phiếu thưởng và trả cổ tức cho các cổ đông.

CASE STUDY N0: 175: Thủ tướng nói gì về nợ công?

1- Thủ tướng khẳng định, đến năm 2020 nợ cộng nước ta còn khoảng 60,2% GDP, nằm trong giới hạn quy định an toàn cho phép là không quá 65% GDP.

Theo khẳng định của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong văn bản trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, nợ công của nước ta đến cuối năm 2014 là 60,3% GDP và theo kế hoạch đến năm 2016 sẽ tăng lên mức cao nhất là 64,9% GDP.

Các năm sau đó sẽ giảm dần, đến năm 2020 còn khoảng 60,2% GDP, nằm trong giới hạn quy định an toàn cho phép là không quá 65% GDP.
2-Chỉ tiêu vay, trả nợ đều trong ngưỡng an toàn:
Theo báo cáo của Chính phủ, chỉ tiêu nợ công so với GDP phù hợp với mục tiêu chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và trong giới hạn được Quốc hội cho phép (Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP).

CASE STUDY N0: 174: Nợ công Việt Nam “khủng” cỡ nào?

1-Nếu đổi nợ công của Việt Nam ra đồng xu 200VND, số xu này có thể phủ kín 9 lần diện tích đất nước, độ cao của chúng có thể quấn hơn 3000 vòng quanh mặt trời.

2-Tính đến ngày 18/5, theo đồng hồ báo nợ toàn cầu của tạp chí Economist, nợ công Việt Nam đang ở mức xấp xỉ 89,41 tỷ USD. Với dân số ước tính 91,5 triệu người, tính ra, mỗi người dân đang gánh nợ 983USD. Một năm trước, con số này là 81,18 tỷ USD và 897,84 USD.

3-Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện tại, The Economist dự đoán nợ công Việt Nam sẽ tăng lên 97,35 tỷ USD vào năm tới, tức mỗi người dân sẽ gánh nợ 1.065 USD.

-Theo con số từ Bộ Tài chính, tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 là 13,8% và năm 2015 dự kiến khoảng 16,1%, dưới mức quy định là 25%.

-Tuy nhiên, cách đây không lâu Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho rằng con số thực về tỷ lệ trả nợ trực tiếp nước ngoài của Việt Nam lên đến 31% chứ không phải dừng lại ở con số thấp như Bộ Tài chính đưa ra.

-Tuy nhiên đại diện bộ cho biết: “Do nguồn lực còn hạn chế nên vẫn cần huy động vốn vay để đầu tư”.

Vậy, hãy cùng làm một vài phép tính nhỏ để dễ tưởng tượng độ “khủng” của nợ công Việt Nam trong thời điểm hiện tại.