1. Đặt nhiệm vụ của chính quyền là tạo bình đẳng trong hoạt động kinh tế, giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân, tạo ổn định trên thị trường, nhất là giá cả, và đó phải là nhiệm vụ cơ bản của chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu lạm phát không thấp thì việc trả nợ sẽ rất khó khăn với tình hình nợ cao như hiện nay, nhưng đây không phải là lý do tạo lạm phát, đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng nghiêm trọng hơn.
2. Khi Hiến pháp 2013 viết với điều 51 là “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” không có nghĩa là “doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo”. Hoàn toàn có thể diễn giải “kinh tế nhà nước là chủ đạo” theo nghĩa vai trò điều chỉnh trong chính sách tiền tệ, chi tiêu ngân sách và các chính sách kinh tế của nhà nước.
3. Nếu muốn ổn định giá cả, cần xem xét lại ý nghĩa nghị quyết của Đại hội XII về việc cho phép thiếu hụt ngân sách khoảng 4% GDP. Tỷ lệ thiếu hụt ngân sách trên GDP này là vượt mức tập quán thế giới cho phép 3% nếu như không có khủng hoảng. Trước tình hình nợ công rất cao hiện nay, việc cho phép một tỷ lệ thiếu hụt như trên là khó chấp nhận.
Ngoài ra, cần biết rõ chỉ tiêu trên là dựa vào dự toán chứ không phải kết toán. Nếu là kết toán thì tỷ lệ có thể sẽ cao hơn 30-40% như thường xảy ra cho đến hiện nay, tức là ít nhất sẽ lên đến 5,2%. Bơm tiền để tài trợ chi tiêu cho Nhà nước sẽ làm tăng lạm phát. Một trong những lý do mà Quốc hội không kiểm soát được ngân sách là việc tóm tổng hợp ngân sách trung ương và địa phương. Quốc hội có trách nhiệm thông qua và kiểm soát ngân sách trung ương và hội đồng nhân dân các tỉnh và thành phố có trách nhiệm với ngân sách địa phương. Luật ngân sách cũng đã phân quyền các khoản tự thu, tự chi và các khoản phải thu, phải chi có phân chia giữa trung ương và địa phương (theo các tiêu chí kinh tế - xã hội khách quan đã được định trước), cho nên việc áp dụng phân quyền triệt để là điều kiện để hạn chế biên chế nhà nước và chi ngân sách ngày càng phình ra không kiểm soát được.
Ít có nước nào có thu nhập thấp như Việt Nam lại chi ngân sách lên đến 27% GDP - số dự toán trung bình trong chín năm qua - như Việt Nam (và con số thật có thể bằng ít nhất 35% GDP).
4. Xem xét lại chính sách lấy DNNN làm chủ đạo, ít nhất là chấm dứt việc lập doanh nghiệp mới, cấm các DNNN tự quyết lập công ty con (quyết định lập doanh nghiệp mới hay công ty con phải do Quốc hội quyết định), chấm dứt ưu đãi về vay vốn cho DNNN.
5. Khuyến khích việc lập doanh nghiệp tư nhân (công ty đăng ký theo Luật Doanh nghiệp) là cơ sở cho phương pháp quản lý và công nghệ tiên tiến.
6. Chính sách của nhà nước là phải khuyến khích sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân, đồng thời có thể hỗ trợ bằng cách xác định các công nghệ cơ bản mà các ngành sản xuất phải làm chủ được, thay đổi hệ thống giáo dục nghề để thực hiện được mục đích trên. Cũng cần đòi hỏi DNNN phải có biện pháp nhận chuyển giao công nghệ khi làm ăn chung với nước ngoài. Cho đến nay có thể nói là Việt Nam không có chính sách về công nghệ (điều này khác hẳn việc có dự án đầu tư), thí dụ xây cầu là hoạt động của dự án xây dựng, nhưng nắm được toàn bộ kỹ thuật xây cầu tiên tiến là công nghệ. Nếu không nắm được công nghệ thì Việt Nam sẽ phải mãi mãi dựa vào thầu Trung Quốc.
7. Cổ phần hóa DNNN phải làm thận trọng, có đánh giá của chuyên gia độc lập (có thể có hai đánh giá: của chính phủ và của Quốc hội, dựa vào đánh giá sơ khởi của công ty); việc bán vốn nhà nước phải được quảng bá rộng rãi trên báo chí. Hướng chính là giảm tỷ trọng sở hữu của nhà nước trong doanh nghiệp về tài sản.
8. Sửa lại Luật các tổ chức tín dụng, xóa bỏ quyền một doanh nghiệp phi tài chính được sở hữu ngân hàng và công ty chứng khoán và ngược lại.